Tài liệu Lý luận chung về bảo hiểm gián đoạn kinh doanh

Bảo hiểm gián đoạn kinh doanh là "lá chắn kinh tế" của các doanh nghiệp,
góp phần giảm thiểu những hậu quả ảnh hưởng của các rủi ro đến hoạt
động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
Trong cuộc sống hàng ngày cũng như trong hoạt động sản xuất kinh doanh của mỗi
doanh nghiệp đôi khi xảy ra những rủi ro bất ngờ mà không ai lường trước được. Các rủi
ro đã và đang gây nên những tổn thất, thiệt hại về tài sản, về tính mạng của con người,
làm gián đoạn quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Cùng với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, nhiều thành tựu khoa học kỹ thuật được
ứng dụng trong sản xuất kinh doanh, từ đó làm cho qui mô của hoạt động sản xuất kinh
doanh ngày càng mở rộng. Do vậy, giá trị tài sản của doanh nghiệp ngày càng lớn. Nếu
chẳng may rủi ro thiệt hại xảy ra thì hậu quả thường rất nặng nề và ảnh hưởng lâu dài
không chỉ tới bản thân chính doanh nghiệp mà còn ảnh hưởng đến cả các doanh nghiệp,
cá nhân thường xuyên có quan hệ với doanh nghiệp. Sự ra đời của các công ty bảo hiểm
đã giúp các đơn vị sản xuất kinh doanh ổn định tình hình sản xuất, đảm bảo công việc
kinh doanh được tiến hành bình thường. Thông qua việc bồi thường một cách kịp thời,
chính xác, trung thực đã giúp cho các doanh nghiệp nhanh chóng khắc phục được hậu
quả thiệt hại. Bên cạnh đó, với sự chuyển đổi của cơ chế quản lý, Nhà nước đã chủ động
giao vốn cho các doanh nghiệp, chủ yếu là các doanh nghiệp Nhà nước. Trong việc bảo
tồn và phát triển vốn, các doanh nghiệp không có sự hỗ trợ nhiều của Nhà nước như
trong thời kỳ bao cấp trước đây. Nếu khi có thiệt hại gì xảy ra, doanh nghiệp không
được quyền ghi giảm vốn đặc biệt là những thiệt hại gây ra bởi các rủi ro các công ty
bảo hiểm trong nước đã triển khai hay với các loại hình tương tự. Vì vậy bảo hiểm sẽ là
"lá chắn kinh tế" để đảm bảo sự bảo toàn vốn cho các doanh nghiệp khi không may gặp
phải những thiệt hại của thiên tai hoặc do sự sơ suất vô ý của người lao động. 
pdf 21 trang hoanghoa 09/11/2022 2500
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Tài liệu Lý luận chung về bảo hiểm gián đoạn kinh doanh", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdftai_lieu_ly_luan_chung_ve_bao_hiem_gian_doan_kinh_doanh.pdf

Nội dung text: Tài liệu Lý luận chung về bảo hiểm gián đoạn kinh doanh

  1. Nội dung cơ bản trong hợp đồng bảo hiểm nói chung và trong hợp đồng bảo hiểm gián đoạn kinh doanh nói riêng Hợp đồng bảo hiểm Khái niệm hợp đồng bảo hiểm "Hợp đồng bảo hiểm là một thoả thuận giữa bên mua bảo hiểm và doanh nghiệp bảo hiểm, theo đó bên mua bảo hiểm phải đóng phí bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm phải trả tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng hoặc bồi thường cho người được bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm" [6,16]. Như vậy, đứng trên góc độ pháp lý thì hợp đồng bảo hiểm thực chất là một hợp đồng kinh tế trong đó một bên đồng ý bồi thường, trả tiền bảo hiểm cho bên kia khi xảy ra sự kiện bảo hiểm với điều kiện bên kia chấp nhận đóng phí bảo hiểm. Theo hợp đồng bảo hiểm, mối quan hệ nhất định giữa hai bên ràng buộc với nhau bởi hai vấn đề cơ bản: bồi thường và nộp phí bảo hiểm. Điều kiện pháp lý áp dụng trong hợp đồng bảo hiểm Có hai loại điều kiện được áp dụng cho hợp đồng bảo hiểm, đó là: ω Điều kiện ngầm định ω Điều kiện rõ ràng a) Điều kiện ngầm định Trong thực tế, có những điều kiện ngầm định không được thể hiện bằng văn bản nhưng hai bên phải luôn tuân thủ trong thời hạn hiệu lực của hợp đồng. - Quyền lợi được bảo hiểm: Trong luật bảo hiểm Anh và nhiều nước, trong đó có Việt Nam có qui định về quyền lợi được bảo hiểm. Theo đó, để có đủ năng lực pháp lý tham gia vào hợp đồng bảo hiểm thì người tham gia bảo hiểm phải là người có quyền lợi khi đối tượng bảo hiểm đó bị thiệt hại. Điều đó có nghĩa là đối tượng bảo hiểm, đặc biệt là tài sản phải thuộc quyền sử dụng hay quản lý hợp pháp của các cơ quan doanh nghiệp, các cá nhân và tổ chức thuộc mọi thành phần kinh tế trong xã hội và họ chính là người tham gia bảo hiểm. 9/19
  2. - Tín nhiệm tuyệt đối: Điều kiện "tín nhiệm tuyệt đối" được áp dụng trong quan hệ bảo hiểm giữa người bảo hiểm đối với người tham gia bảo hiểm. Điều đó có nghĩa là người tham gia bảo hiểm phải có trách nhiệm kê khai trung thực, đầy đủ và chính xác giá trị tài sản hoặc là tình trạng sức khoẻ, trong phạm vi kiến thức và sự hiểu biết của họ khi người bảo hiểm yêu cầu. Những thông tin này là cơ sở để người bảo hiểm có chấp nhận bảo hiểm cho đối tượng bảo hiểm hay không. Người tham gia bảo hiểm không được thực hiện bất cứ hành vi man trá hay gian dối nào trong thời gian hiệu lực cuả hợp đồng nhằm trục lợi. Việc tuân thủ đúng nguyên tắc này đóng vai trò quan trọng trong việc giao dịch bảo hiểm. -Bồi thường: Khi có sự cố rủi ro thuộc trách nhiệm bảo hiểm gây thiệt hại cho người được bảo hiểm, người được bảo hiểm sẽ được bồi thường theo đúng qui định của hợp đồng. Hiện nay có ba hình thức bồi thường được sử dụng: + Thanh toán bằng tiền mặt. Đây chính là hình thức phổ biến nhất. Công ty bảo hiểm xác định giá trị tổn thất thực tế bằng tiền và thực hiện bồi thường cho khách hàng. + Sửa chữa đối với loại tài sản bị tổn thất còn khả năng sửa chữa. + Thay thế hay phục hồi, phương pháp này thường được áp dụng trong trường hợp tổn thất toàn bộ. Đó là các điều kiện ngầm định được áp dụng trong hợp đồng bảo hiểm. Hai điều kiện đầu được coi là hai điều kiện quan trọng phải được thực hiện trước khi hình thành hợp đồng. Trong trường hợp những điều kiện này không được tuân thủ, tính hợp lệ của toàn bộ hợp đồng sẽ không được đảm bảo. b) Những điều kiện rõ ràng Cùng với việc thực hiện những điều kiện ngầm định, giữa người bảo hiểm và người được bảo hiểm cũng có những "điều kiện rõ ràng" được qui định bằng văn bản trong hợp đồng bảo hiểm buộc hai bên cùng phải tôn trọng thực hiện. Các điều kiện đó sẽ được xem xét một cách cụ thể trong phần tiếp theo của hợp đồng bảo hiểm. Kết cấu và nội dung của hợp đồng bảo hiểm * Đơn yêu cầu bảo hiểm: Đơn yêu cầu bảo hiểm là hình thức phổ biến nhất để công ty bảo hiểm có thể nhận được các thông tin liên quan tới rủi ro sẽ được bảo hiểm. Đối với hầu hết các loại bảo hiểm, người yêu cầu bảo hiểm sẽ điền vào đơn yêu cầu bảo hiểm và nộp cho công ty bảo hiểm. Các đơn này có thể do công ty bảo hiểm gốc hoặc môi giới bảo hiểm hay trung gian bảo hiểm cung cấp. 10/19
  3. Trong hầu hết các đơn bảo hiểm thường có những câu hỏi chung như sau: ω Tên, địa chỉ của người yêu cầu bảo hiểm (nếu bảo hiểm liên quan đến cá nhân có thể có câu hỏi liên quan đến nghề nghiệp, tuổi tác). ω Thời gian yêu cầu bảo hiểm. ω Ngành nghề kinh doanh. ω Cơ sở tính phí bảo hiểm (đồ đạc, nhà cửa, bảng lương, doanh thu, ) Bên cạnh đó cũng có những câu hỏi liên quan đến các rủi ro cụ thể. Nói cách khác, một đơn yêu cầu bảo hiểm sẽ chứa đựng các câu hỏi chung và riêng, và tất cả các câu hỏi đó đều có giá trị đối với công ty bảo hiểm. Đơn yêu cầu bảo hiểm chính là cơ sở của hợp đồng bảo hiểm và là một phần không thể thiếu trong hợp đồng bảo hiểm. * Đơn bảo hiểm và giấy chứng nhận bảo hiểm: Sau khi đơn yêu cầu bảo hiểm được trình bày hợp lý và công ty bảo hiểm chấp nhận đơn đó, công ty bảo hiểm sẽ cấp cho người được bảo hiểm đơn bảo hiểm kèm theo giấy chứng nhận bảo hiểm. Đơn bảo hiểm và giấy chứng nhận bảo hiểm là bằng chứng về việc xác lập hợp đồng, trong đó bao gồm mọi chi tiết về việc bảo hiểm. Trong đơn bảo hiểm và giấy chứng nhận bảo hiểm phải đề cập được các nội dung sau: ω Tên, địa chỉ doanh nghiệp bảo hiểm, bên mua bảo hiểm, người được bảo hiểm hoặc người thụ hưởng. ω Đối tượng bảo hiểm ω Số tiền bảo hiểm, giá trị tài sản được bảo hiểm đối với bảo hiểm tài sản ω Điều khoản loại trừ trách nhiệm bảo hiểm ω Thời hạn bảo hiểm ω Mức phí bảo hiểm, phương thức đóng phí bảo hiểm ω Thời hạn, phương thức trả tiền bảo hiểm hoặc bồi thường ω Các qui định giải quyết tranh chấp ω Ngày, tháng, năm giao kết hợp đồng Ngoài ra còn có thể có những nội dung khác do các bên thoả thuận. 11/19
  4. Hợp đồng bảo hiểm gián đoạn kinh doanh Hợp đồng bảo hiểm gián đoạn kinh doanh Hợp đồng bảo hiểm gián đoạn kinh doanh giống như bất kỳ một hợp đồng bảo hiểm nào đều mang đầy đủ các nội dung cũng như đặc điểm của một hợp đồng bảo hiểm như đã đề cập ở phần lý luận trên. Tuy nhiên, do tính đặc thù của loại nghiệp vụ bảo hiểm này nên nó cũng có những đặc điểm riêng so với các loại hợp đồng bảo hiểm khác. Trong phần lý luận sau, do phạm vi nghiên cứu của đề tài này như đã đề cập ở phần giới thiệu, sẽ chỉ đề cập tới hợp đồng bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy. Một số khái niệm về doanh thu, chi phí cố định, chi phí biến đổi, lợi nhuận thuần, lợi nhuận gộp "Doanh thu bán hàng là toàn bộ các khoản doanh thu về tiêu thụ sản phẩm hàng hoá dịch vụ" [11, 83]. Đây là bộ phận chủ yếu, chiếm tỉ trọng lớn trong tổng doanh thu. Ngoài ra, doanh thu còn từ các hoạt động khác bao gồm các khoản từ hoạt động đầu tư tài chính (thu từ hoạt động đầu tư, thu về việc mua bán chứng khoán, lãi kí quĩ, hoàn nhập dự phòng giảm giá chứng khoán, cho thuê tài sản, lãi tiền gửi, lãi tiền cho vay ), và từ hoạt động bất thường (thu về nhượng bán thanh lý tài sản cố định, thu từ phạt vi phạm hợp đồng, nợ khó đòi đã đòi được, nợ phải trả không xác định được chủ, thu nhập năm trước bị bỏ sót ). "Chi phí cố định là những chi phí có đặc trưng cơ bản là tổng số của nó không thay đổi khi khối lượng kinh doanh thay đổi" [18,90]. Khoản chi phí này là những khoản chi phí tồn tại ngay cả khi không tiến hành sản xuất kinh doanh, ví dụ như tiền thuê nhà xưởng, thuê đất, tài sản cố định, "Chi phí biến đổi là chi phí biến đổi thuận chiều với sự thay đổi khối lượng kinh doanh của doanh nghiệp" [18,90], ví dụ như chi phí mua nguyên vật liệu, chi phí thuê nhân công hợp đồng "Lợi nhuận thuần là khoản lợi nhuận thu được sau khi đã trừ đi tất cả các khoản dự phòng, các chi phí cố định kể cả những chi phí khấu hao, nhưng phải được tính trước khi trừ đi các loại thuế tính trên thu nhập" [5, appendix A] "Lợi nhuận gộp = [Doanh thu + (giá trị hàng tồn kho và hàng hoá đang trong kì sản xuất ở cuối kỳ - giá trị hàng hoá đang trong kỳ sản xuất đầu kì) - tổng chi phí sản xuất không được bảo hiểm]" [5, appendix A]. 12/19
  5. Đối tượng bảo hiểm Như đã đề cập trong phần đặc điểm của bảo hiểm gián đoạn kinh doanh, đối tượng bảo hiểm trong bảo hiểm gián đoạn kinh doanh là đối tượng vô hình. Khác với các loại nghiệp vụ bảo hiểm thiệt hại vật chất có đối tượng bảo hiểm là hữu hình, đối tượng bảo hiểm trong bảo hiểm gián đoạn kinh doanh do đặc tính trừu tượng như vậy đã gây rất nhiều khó khăn cho các nhà bảo hiểm. Đây cũng chính là lý do khiến cho một nghiệp vụ bảo hiểm rất quan trọng như bảo hiểm gián đoạn kinh doanh đã ra đời quá muộn so với các nghiệp vụ khác. Theo đơn bảo hiểm qui chuẩn của Anh quốc mà ngày nay rất nhiều quốc gia trên thế giới cũng đang sử dụng thì đối tượng bảo hiểm của bảo hiểm gián đoạn kinh doanh là "tổn thất mang tính hậu quả do việc ngừng trệ hay gián đoạn" [5, 6]. Số tiền bảo hiểm Khác với số tiền bảo hiểm trong các nghiệp vụ bảo hiểm thiệt hại vật chất được xác định dựa trên giá trị bảo hiểm, số tiền bảo hiểm của bảo hiểm gián đọan kinh doanh được xác định dựa trên giá trị lợi nhuận gộp hàng năm của doanh nghiệp tham gia bảo hiểm. Số tiền bảo hiểm trong loại hình nghiệp vụ này do người được bảo hiểm xác định, được tính từ số liệu kế toán của người được bảo hiểm và phải thể hiện được giá trị lợi nhuận gộp ước tính trong tương lai của doanh nghiệp được bảo hiểm. Để xác định giá trị đó, số liệu kế toán của năm gần nhất sẽ được sử dụng. Tuy nhiên, thường thì người ta sử dụng số liệu kế toán của hai hoặc ba năm liên tiếp nhằm tránh những biến động bất thường có thể ảnh hưởng tới tính chính xác của số liệu. "Khi thời hạn bồi thường là 12 tháng hoặc thấp hơn, số tiền bảo hiểm phải là giá trị hàng năm của lợi nhuận gộp. Nếu thời hạn bồi thường vượt quá 12 tháng số tiền bảo hiểm phải là lợi nhuận gộp cho thời hạn bồi thường được chọn" [5, 7]. Ví dụ nếu thời hạn bồi thường là 3 năm thì số tiền bảo hiểm là 3 lần giá trị lợi nhuận gộp hàng năm. Tuy vậy, mục đích của bảo hiểm gián đoạn kinh doanh không những bảo hiểm phần lợi nhuận bị mất đi so với cùng kỳ năm trước mà còn bồi thường cho thêm cả phần lợi nhuận họ sẽ thu được theo tỉ lệ tăng doanh thu bình quân năm kế tiếp. Để tránh sự đánh giá thấp của số tiền bảo hiểm, người ta còn phải tính đến hệ số tăng bình quân doanh thu của hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp bằng cách so sánh nhiều năm tài chính dựa trên cơ sở kế toán tính trước khi kí kết hợp đồng gián đoạn kinh doanh. Bằng cách đó người ta có thể tính được số tiền bảo hiểm như sau: Số tiền bảo Lợi nhuận gộp hệ số tăng bình thời hạn bồi thường tính = x x hiểm cả năm quân bằng tháng Phạm vi bảo hiểm: "Công ty bảo hiểm sẽ chỉ bồi thường cho người được bảo hiểm những tổn thất mang tính hậu quả do việc ngừng trệ hay gián đoạn kinh doanh với điều kiện: 13/19
  6. (1) tại thời điểm xảy ra tổn thất, các thiệt hại của các tài sản của người được bảo hiểm phải được bảo vệ bởi một đơn bảo hiểm thiệt hại vật chất và: • công ty bảo hiểm của đơn bảo hiểm thiệt hại vật chất đã xác nhận trách nhiệm hoặc đã thanh toán bồi thường. hoặc 1. 1. công ty bảo hiểm của đơn bảo hiểm thiệt hại vật chất đáng nhẽ đã xác nhận trách nhiệm hoặc đã thanh toán tiền bồi thường nhưng do điều kiện của đơn bảo hiểm thiệt hại vật chất sẽ không bồi thường cho những tổn thất nhỏ hơn mức trách nhiệm đã kê khai trong đơn bảo hiểm. 2. trách nhiệm của công ty bảo hiểm, trong mọi trường hợp, sẽ không vượt quá : 1. Tổng số tiền bảo hiểm hay số tiền bảo hiểm tương ứng với mỗi khoản mục được kê khai trong giấy chứng nhận bảo hiểm 2. Bất cứ trách nhiệm được đưa ra trong giấy chứng nhận bảo hiểm hay bất cứ số tiền bảo hiểm nào được sửa đổi bởi các sửa đổi bổ sung đính kèm và được ký xác nhận bởi công ty bảo hiểm hay người đại diện cho công ty bảo hiểm" [2, 1]. Điều khoản loại trừ "Đơn bảo hiểm gián đoạn kinh doanh không bảo hiểm cho các tổn thất do hậu quả của: • Thiệt hại do thiết kế sai, khuyết tật của nguyên vật liệu hay do tay nghề kém; do những khuyết tật ẩn tì; do sự thoái hoá dần giá trị hoặc do sự biến dạng, hao mòn tự nhiên; do việc ngừng cung cấp điện, nước, khí đốt hay các nguồn nguyên liệu khác hay do sự hư hỏng của hệ thống thải rác; do ăn mòn, gỉ; do sự thay đổi độ ẩm hay khô của thời tiết; do nấm mốc mục nát; do hao hụt bay hơi, do hư hại do tác động của ánh sáng, sâu bọ côn trùng; do các hành động lừa dối không trung thực. • Thiệt hại do những mất mát không giải thích được, những thiếu hụt do lỗi kế toán, lỗi kiểm kê, quản lý hành chính. • Thiệt hại do đổ vỡ, rạn nứt hay áp suất quá tải của nồi hơi, bình đun bằng hơi, bình hay đường ống dò gỉ; do hư hỏng trục trặc máy móc thiết bị về đo điện hay cơ khí; vỡ, tràn nước, tháo nước hay dò gỉ. • Thiệt hại do sự xói mòn của sông biển; sụt lở đất, lún đất. • Thiệt hại do tài sản bị biến mất, thiếu hụt khi kiểm kê trong quá trình vận chuyển ngoài khu vực được đề cập hoặc không rõ nguyên nhân. • Thiệt hại do thông tin bị tẩy xoá, mất mát, bóp méo trên hệ thống máy tính hoặc các chương trình phần mềm lưu trữ số liệu khác. • Thiệt hại đối với kính lắp cố định, kính và các đồ dễ vỡ khác, các máy điện toán, các thiết bị xử lý dữ liệu, máy móc thiết bị đang lắp đặt, di chuyển, tài sản 14/19
  7. đang trong quá trình kiểm tra, lắp đặt, sửa chữa, xây dựng, xe cơ giới đang lưu hành trên đường. • Thiệt hại do bất kỳ hành động cố ý hay sự cẩu thả cố tình của người được bảo hiểm hay bất kỳ ai đại diện cho họ. • Thiệt hại do hậu quả dù trực tiếp hay gián tiếp của chiến tranh, xâm lược, các hành động thù địch, nội chiến, binh biến, bạo động, hành động khủng bố • Thiệt hại gây ra do người được bảo hiểm bị tước quyền sở hữu tạm thời hay vĩnh viễn do bị tịch thu tài sản, trưng dụng tài sản theo lệnh của nhà cầm quyền hợp pháp. • Thiệt hại trực tiếp hay gián tiếp hoặc phát sinh từ hậu quả hay do ảnh hưởng một phần của bất kỳ nguyên liệu vũ khí hạt nhân nào, phóng xạ ion hoá hay do ô nhiễm phóng xạ" [2, 3]. Phí bảo hiểm Phí bảo hiểm gián đoạn kinh doanh được tính trên cơ sở số tiền bảo hiểm do người được bảo hiểm chọn (gọi là số tiền bảo hiểm đăng ký). Để đăng ký một hợp đồng bảo hiểm thiệt hại kinh doanh người tham gia bảo hiểm phải thông báo một loạt số liệu về kế toán, đặc biệt là tài khoản kết quả sản xuất kinh doanh thực hiện một số năm trước đó. Căn cứ vào tài khoản này cộng thêm với lời khai báo, hai bên thỏa thuận với nhau về số tiền bảo hiểm (cụ thể số tiền bảo hiểm ở đây là lợi nhuận gộp). Việc thoả thuận được số tiền bảo hiểm có ý nghĩa vô cùng quan trọng cho công tác tính phí vì thực chất phí bảo hiểm gián đoạn kinh doanh được xác định như sau: Phí bảo hiểm = số tiền bảo hiểm x tỉ lệ phí bảo hiểm Tỉ lệ phí bảo hiểm phụ thuộc vào 3 yếu tố cơ bản: • Xác suất rủi ro của nghiệp vụ bảo hiểm. • Phạm vi bảo hiểm. • Số tiền bồi thường cho một số năm trước đây. Tuy vậy, trong bảo hiểm gián đoạn kinh doanh, tỉ lệ phí bảo hiểm được tính dựa trên tỉ lệ phí bảo hiểm chung cho rủi ro hoả hoạn. Việc tính phí bảo hiểm còn phụ thuộc vào yếu tố thời gian, cụ thể là thời hạn bồi thường. Thời hạn bồi thường càng cao có nghĩa là trách nhiệm bồi thường của nhà bảo hiểm càng lớn, vì thế phí bảo hiểm cũng tăng tương ứng. Ví dụ, theo biểu phí Bảo Việt Hà Nội hiện đang triển khai thì nếu thời hạn bồi thường là 3 tháng thì tỉ lệ phí bảo hiểm là 50% tỉ lệ phí bảo hiểm của bảo hiểm hoả hoạn, nếu 6 tháng là 75%, nếu 12 tháng là 100%. Tuy nhiên, thời hạn bồi thường tăng đến một mức nhất định thì phí bảo hiểm có xu hướng giảm dần do cơ sở tính phí sẽ thay đổi. 15/19
  8. Thời hạn và phương thức bồi thường Bồi thường là nguyên tắc cơ bản của bảo hiểm. Trong bảo hiểm gián đoạn kinh doanh, rất khó xác định số tiền bồi thường mặc dù đã có công thức xác định cách giải quyết tổn thất được ghi trong nội dung đơn bảo hiểm. Kế toán của người được bảo hiểm thường tham gia xác định mức lãi kinh doanh của doanh nghiệp sẽ thu được nếu như vụ hoả hoạn hay một hiểm hoạ nào đó không xảy ra. Vấn đề bồi thường trong bảo hiểm gián đoạn kinh doanh khác với bồi thường trong thiệt hại vật chất. Nếu như mục đích của bảo hiểm bồi thường trong các đơn bảo hiểm thiệt hại vật chất là đưa người bảo hiểm trở về vị trí giống như trước khi xảy ra tổn thất , thì đối với bảo hiểm gián đoạn kinh doanh lại không hoàn toàn như vậy. Chúng ta hãy xem xét một ví dụ ngắn. Một nhà sản xuất hàng phục vụ lễ Giáng Sinh.Và hiện giờ hàng đang trong nhà kho chờ ngày đem bán. Một vụ cháy xảy ra ở nhà kho, phá huỷ hầu hết số hàng hoá phục vụ cho Giáng Sinh. Như vậy ta sẽ thấy ngay có một số nhân tố khiến hầu như không thể đưa người được bảo hiểm trở về vị trí tài chính giống như trước khi xảy ra tổn thất như nhà sản xuất đã bỏ lỡ thị trường, mất khách hàng Vì vậy, đối với các đơn bảo hiểm gián đoạn kinh doanh, bồi thường có thể được coi là một nỗ lực đưa người bảo hiểm trở về vị trí tài chính mà lẽ ra người đó sẽ phải có nếu như tổn thất không xảy ra. Để xác định số tiền thiệt hại lợi nhuận gộp, công thức sau thường được sử dụng: Tỉ lệ lợi nhuận gộp = lợi nhuận được đảm bảo Tổng giá trị các tài khoản thu nhập liên quan đến hoạt động của doanh nghiệp Thiệt hại doanh thu doanh thu lẽ ra được thực doanh thu thực tế được thực = - thực tế hiện hiện Thiệt hại lợi nhuận gộp = thiệt hại doanh thu thực tế x tỉ lệ lợi nhuận gộp Thiệt hại lợi nhuận gộp cho phép ta xác định được số tiền bồi thường tối đa, nhưng phải trừ đi mức miễn thường (thường được tính bằng ngày trong bảo hiểm thiệt hại kinh doanh). "Giả định, mỗi đơn vị doanh thu bao gồm 0,6 đơn vị là chi phí mua nguyên vật liệu và các chi phí biến đổi khác, 0,3 đơn vị là chi phi cố định, 0,1 đơn vị là lợi nhuận ròng. Tuy nhiên, khi xảy ra tổn thất làm gián đoạn kinh doanh thì người được bảo hiểm sẽ không phải gánh chịu tổn thất của cả 1 đơn vị doanh thu đó mà sự giảm doanh thu sẽ kéo theo việc giảm tương ứng chi phí biến đổi, vì vậy người bảo hiểm sẽ không chịu 16/19
  9. trách nhiệm đối với 0,6 đơn vị chi phí mua nguyên vật liệu và các chi phí biến đổi khác mà chỉ cần bồi thường 0,4 đơn vị chi phí cố định và lợi nhuận ròng là có thể đưa người được bảo hiểm trở về tình trạng tài chính mà lẽ ra người đó có nếu như tổn thất không xảy ra". [5, 61]. Do đó, số thiệt hại lợi nhuận gộp là số tiền bồi thường tối đa mà người được bảo hiểm có thể nhận được. Tuy nhiên trên thực tế, như đã phân tích trong ví dụ trên, thì số tiền bồi thường sẽ hiếm khi đạt được bằng số thiệt hại lợi nhuận gộp. Yếu tố thời hạn bồi thường được đưa vào đơn bảo hiểm gián đoạn kinh doanh khác hoàn toàn so với đơn bảo hiểm thiệt hại vật chất, thời hạn bồi thường trong bảo hiểm gián đoạn kinh doanh được ghi rõ trong đơn bảo hiểm và phải do người được bảo hiểm tự chọn. 17/19
  10. Tham gia đóng góp Tài liệu: Lý luận chung về bảo hiểm gián đoạn kinh doanh Biên tập bởi: Đại Học Kinh Tế Quốc Dân URL: Giấy phép: Module: Sự ra đời của bảo hiểm gián đoạn kinh doanh Các tác giả: Đại Học Kinh Tế Quốc Dân URL: Giấy phép: Module: Vai trò kinh tế xã hội của bảo hiểm gián đoạn kinh doanh Các tác giả: Đại Học Kinh Tế Quốc Dân URL: Giấy phép: Module: Đặc điểm của bảo hiểm gián đoạn kinh doanh Các tác giả: Đại Học Kinh Tế Quốc Dân URL: Giấy phép: Module: Nội dung cơ bản trong hợp đồng bảo hiểm nói chung và trong hợp đồng bảo hiểm gián đoạn kinh doanh nói riêng Các tác giả: Đại Học Kinh Tế Quốc Dân URL: Giấy phép: Module: Hợp đồng bảo hiểm gián đoạn kinh doanh Các tác giả: Đại Học Kinh Tế Quốc Dân URL: Giấy phép: 18/19
  11. Chương trình Thư viện Học liệu Mở Việt Nam Chương trình Thư viện Học liệu Mở Việt Nam (Vietnam Open Educational Resources – VOER) được hỗ trợ bởi Quỹ Việt Nam. Mục tiêu của chương trình là xây dựng kho Tài nguyên giáo dục Mở miễn phí của người Việt và cho người Việt, có nội dung phong phú. Các nội dung đểu tuân thủ Giấy phép Creative Commons Attribution (CC-by) 4.0 do đó các nội dung đều có thể được sử dụng, tái sử dụng và truy nhập miễn phí trước hết trong trong môi trường giảng dạy, học tập và nghiên cứu sau đó cho toàn xã hội. Với sự hỗ trợ của Quỹ Việt Nam, Thư viện Học liệu Mở Việt Nam (VOER) đã trở thành một cổng thông tin chính cho các sinh viên và giảng viên trong và ngoài Việt Nam. Mỗi ngày có hàng chục nghìn lượt truy cập VOER (www.voer.edu.vn) để nghiên cứu, học tập và tải tài liệu giảng dạy về. Với hàng chục nghìn module kiến thức từ hàng nghìn tác giả khác nhau đóng góp, Thư Viện Học liệu Mở Việt Nam là một kho tàng tài liệu khổng lồ, nội dung phong phú phục vụ cho tất cả các nhu cầu học tập, nghiên cứu của độc giả. Nguồn tài liệu mở phong phú có trên VOER có được là do sự chia sẻ tự nguyện của các tác giả trong và ngoài nước. Quá trình chia sẻ tài liệu trên VOER trở lên dễ dàng như đếm 1, 2, 3 nhờ vào sức mạnh của nền tảng Hanoi Spring. Hanoi Spring là một nền tảng công nghệ tiên tiến được thiết kế cho phép công chúng dễ dàng chia sẻ tài liệu giảng dạy, học tập cũng như chủ động phát triển chương trình giảng dạy dựa trên khái niệm về học liệu mở (OCW) và tài nguyên giáo dục mở (OER) . Khái niệm chia sẻ tri thức có tính cách mạng đã được khởi xướng và phát triển tiên phong bởi Đại học MIT và Đại học Rice Hoa Kỳ trong vòng một thập kỷ qua. Kể từ đó, phong trào Tài nguyên Giáo dục Mở đã phát triển nhanh chóng, được UNESCO hỗ trợ và được chấp nhận như một chương trình chính thức ở nhiều nước trên thế giới. 19/19