Giáo trình Triết học (Phần 1) - Trường Đại học Đồng Nai

Triết học ra đời vào khoảng thế kỷ thứ VIII đến thế kỷ thức VI trước
công nguyên với các thành tựu rực rỡ trong triết học Trung Quốc, Ấn Độ
và Hy Lạp cổ đại.
Triết học, theo gốc từ chữ Hán là sự truy tìm bản chất của đối tượng,
là sự hiểu biết sâu sắc của con người, đi đến đạo lý của sự vật.
Theo người Ấn Độ, triết học là darshana. Điều đó có nghĩa là sự
chiêm ngưỡng dựa trên lý trí, là con đường suy ngẫm để dẫn dắt con người
đến với lẽ phải.
Theo chữ Hy Lạp, triết học là philosophia, có nghĩa là yêu thích sự
thông thái. Nhà triết học được coi là nhà thông thái, có khả năng nhận thức
được chân lý, làm sáng tỏ được bản chất của sự vật.
Như vậy, dù ở phương Đông hay phương Tây, khi triết học mới ra
đời, đều coi triết học là đỉnh cao của trí tuệ, là sự nhận thức sâu sắc về thế
giới, đi sâu nắm bắt được chân lý, được quy luật, được bản chất của sự vật.
Trải qua quá trình phát triển, đã có nhiều quan điểm khác nhau về
triết học. Trong các quan điểm khác nhau đó vẫn có những điểm chung. Đó
là, tất cả các hệ thống triết học đều là hệ thống tri thức có tính khái quát,
xem xét thế giới trong tính chỉnh thể của nó, tìm ra các quy luật chi phối
trong chỉnh thể đó, trong tự nhiên, xã hội và bản thân con người. Khái quát
lại, có thể hiểu. Triết học là một hệ thống tri thức lý luận chung nhất của
con người về thế giới, về bản thân con người và vị trí của con người trong
thế giới đó. 
pdf 226 trang hoanghoa 09/11/2022 4620
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Giáo trình Triết học (Phần 1) - Trường Đại học Đồng Nai", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfgiao_trinh_triet_hoc_phan_1_truong_dai_hoc_dong_nai.pdf

Nội dung text: Giáo trình Triết học (Phần 1) - Trường Đại học Đồng Nai

  1. 9 tục phát triển sáng tạo trong điều kiện thực tiễn mới và các thành tựu khoa học tự nhiên đầu thế kỷ XIX. Phép biện chứng duy vật đã thống nhất phép biện chứng với chủ nghĩa duy vật. Đó là một hệ thống hoàn bị, thống nhất chặt chẽ giữa tính khoa học với tính cách mạng. 4. Chức năng thế giới quan và chức năng phƣơng pháp luận của triết học. a) Chức năng thế giới quan của triết học. Những vấn đề triết học đặt ra và giải quyết trước hết là những vấn đề thế giới quan. Tồn tại trong thế giới, con người phải nhận thức về thế giới và về bản thân mình. Từ đó hình thành nên thế giới quan. Thế giới quan là những quan điểm, quan niệm của con người về thế giới xung quanh, về bản thân và về cuộc sống của con người, về vị trí của con người trong thế giới đó. Thế giới quan bao hàm nhân sinh quan, tức là toàn bộ những quan niệm về cuộc sống của con người. Đến lượt mình, thế giới quan được hình thành lại trở thành nhân tố định hướng cho con người tiếp tục quá trình nhận thức thế giới xung quanh, cũng như tự xem xét bản thân mình và từ đó xác định thái độ, cách thức hoạt động và sinh sống của mình. Thế giới quan đúng đắn là tiền đề để xác lập nhân sinh quan tích cực. Trình độ của thế giới quan là một tiêu chí quan trọng về sự trưởng thành của cá nhân cũng như cộng đồng xã hội nhất định. Triết học ra đời làm cho thế giới quan phát triển lên một trình độ cao -trình độ tự giác dựa trên cơ sở tổng kết kinh nghiệm thực tiễn và tri thức khoa học mạng lại. Triết học là hệ thống các quan điểm lý luận chung nhất về thế giới quan, là hạt nhân lý luận của thế giới quan. Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm chính là cơ sở lý luận của hai thế giới quan đối lập: Thế giới quan duy vật và thế giới quan duy tâm. Cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm trong triết học biểu hiện cuộc đấu tranh giữa các giai cấp, các lực lượng xã hội đối lập nhau. Trong lịch sử triết học, chủ nghĩa duy vật là thế giới quan của giai cấp, của lực lượng xã hội tiến bộ cách mạng, đã góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh vì sự tiến bộ xã hội; ngược lại, chủ nghĩa duy tâm được sử dụng làm công cụ biện hộ về lý luận cho giai cấp thống trị lỗi thời, lạc hậu, phản động. b) Chức năng phương pháp luận của triết học. Cùng với chức năng thế giới quan, triết học còn có chức năng phương pháp luận. Phương pháp luận, là lý luận về phương pháp, là hệ thống các quan điểm, các nguyên tắc chỉ đạo con người tìm tòi, xây dựng,
  2. 10 lựa chọn và vận dụng các phương pháp trong nhận thức và trong thực tiễn. Phương pháp luận có nhiều cấp độ khác nhau: phương pháp luận ngành (phương pháp luận cho rừng chuyên ngành) phương pháp luận chung (phương pháp luận cho một số ngành) và phương pháp luận chung nhất (phương pháp luận chung cho tất cả các ngành). Phương pháp luận của triết học chính là những phương pháp luận chung nhất. Trong triết học, thế giới quan và phương pháp luận không tách rời nhau. Bất cứ lý luận triết học nào, khi lý giải về thế giới xung quanh và bản thân con người, đồng thời cũng thể hiện một phương pháp luận nhất định, chỉ đạo cho việc xây dựng và vận dụng phương pháp. Mỗi hệ thống triết học không chỉ là một thế giới quan nhất định, mà còn là phương pháp luận chung nhất trong việc xem xét thế giới. Mỗi quan điểm triết học đồng thời là một nguyên tắc phương pháp luận, là lý luận về phương pháp. Thế giới quan và phương pháp luận là hai chức năng không tách rời nhau trong triết học, và nó tác động mạnh mẽ đến nhận thức và hoạt động thực tiễn. Lịch sử phát triển của nhân loại cho thấy: Thế giới quan duy vật và phương pháp luận biện chứng duy vật là công cụ mạnh mẽ trong nhận thức khoa học và thực tiễn cải tạo thế giới. II. KHÁI LUẬN VỀ LỊCH SỬ TRIẾT HỌC 1. Lịch sử triết học và đối tƣợng của khoa học lịch sử triết học Để nhận thức một cách sâu sắc về triết học cũng như rèn luyện năng lực tư duy, cần phải nghiên cứu lịch sử triết học. Lịch sử triết học là lịch sử hình thành, phát triển tư tưởng triết học qua các giai đoạn phát triển của xã hội; là lịch sử đấu tranh giữa các trường phái triết học, mà điển hình là cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật với chủ nghĩa duy tâm; giữa phương pháp biện chứng với phương pháp siêu hình; là lịch sử gạt bỏ và kế thừa lẫn nhau của các tư tưởng triết học qua các giai đoạn lịch sử, cũng như giữa các dân tộc và các vùng với nhau. Từ nhu cầu nghiên cứu lịch sử triết học đã ra đời bộ môn khoa học lịch sử triết học. Đối tượng của khoa học lịch sử triết học là nghiên cứu làm rõ lịch sử hình thành, phát triển và nội dung tư tưởng của các học thuyết triết học dưới các biểu hiện cụ thể của nó trong từng giai đoạn lịch sử, làm rõ cuộc đấu tranh giữa hai trường phái triết học (chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm), giữa hai phương pháp triết học (phương pháp biện chứng và phương pháp siêu hình).
  3. 11 Với tư cách là một khoa học, khoa học lịch sử triết học không dừng lại mô tả sự hình thành, phát triển và nội dung tư tưởng của các học thuyết triết học trong lịch sử, mà phải đi sâu nghiên cứu tìm ra được lôgíc nội tại, được các quy luật hình thành, phát triển của triết học. Chỉ trên cơ sở đó mới có thể nhận thức một cách sâu sắc các tư tưởng triết học trong lịch sử. Khoa học lịch sử triết học phải đi sâu nghiên cứu chỉ ra được mối quan hệ giữa các học thuyết triết học với thực tiễn xã hội, với cuộc đấu tranh giữa các giai cấp, các lực lượng xã hội. Đồng thời làm rõ thực chất các học thuyết triết học, đánh giá được những giá trị, cũng như những hạn chế và vai trò lịch sử của các học thuyết triết học đó. Khoa học lịch sử triết học còn phải nghiên cứu chỉ ra mối liên hệ lẫn nhau giữa các học thuyết triết học, sự gạt bỏ và kế thừa lẫn nhau giữa các tư tưởng triết học qua các giai đoạn lịch sử; sự thâm nhập lẫn nhau giữa các tư tưởng triết học của các dân tộc, các quốc gia và các vùng với nhau; sự thâm nhập lẫn nhau và tác động qua lại lẫn nhau giữa triết học với các hình thái ý thức xã hội khác trong quá trình phát triển. Như vậy, khoa học lịch sử triết học phải nghiên cứu tìm ra được quy luật hình thành, phát triển của các học thuyết triết học và vai trò của nó đối với phát triển tư duy lý luận nói riêng, đời sống xã hội nói chung. 2. Tính quy luật về sự hình thành, phát triển của lịch sử tƣ tƣởng triết học. Lịch sử triết học chỉ thực sự trở thành một khoa học khi nó tìm ra được tính quy luật hình thành, phát triển của các tư tưởng triết học. Bởi vì, chỉ khi đó, chúng ta mới không dừng lại sự mô tả các sự kiện mà đi đến phân tích lô gích, tìm ra được cơ sở sâu xa của quá trình hình thành, phát triển và nội dung tư tưởng của các học thuyết triết học; cũng như sự thay thế lẫn nhau của các học thuyết triết học trong lịch sử. Theo quan điểm Mácxít, lịch sử phát triển tư tưởng triết học có tính quy luật của nó. Trong đó, các tính quy luật chung là: sự hình thành, phát triển của các tư tưởng triết học gắn liền với điều kiện kinh tế- xã hội, với cuộc đấu tranh giữa các giai cấp, các lực lượng xã hội; với các thành tựu khoa học tự nhiên và khoa học xã hội; với sự thâm nhập và đấu tranh giữa các trường phái triết học với nhau. Là một hình thái ý thức xã hội, sự hình thành, phát triển của các tư tưởng triết học gắn liền với các điều kiện kinh tế- xã hội, với cuộc đấu tranh của các giai cấp, các lực lượng xã hội. Mỗi giai đoạn phát triển khác
  4. 12 nhau của xã hội, mỗi giai cấp, mỗi lực lượng xã hội khác nhau sẽ xây dựng nên các hệ thống triết học khác nhau. Sự phát triển và thay thế lẫn nhau giữa các hệ thống triết học trong lịch sử là phản ánh sự biến đổi và thay thế lẫn nhau giữa các chế độ xã hội, phản ánh cuộc đấu tranh giữa các giai cấp, các lực lượng trong xã hội. Chính vì vậy, nghiên cứu lịch sử triết học không thể tách rời điều kiện kinh tế- xã hội, điều kiện giai cấp và đấu tranh giai cấp đã sinh ra nó. Là một hình thái ý thức xã hội có tính khái quát, lịch sử phát triển của tư tưởng triết học không thể tách rời các thành tựu của khoa học tự nhiên và khoa học xã hội. Sự phát triển của triết học, một mặt phải khái quát được các thành tựu của khoa học, mặt khác nó phải đáp ứng yêu cầu phát triển của khoa học trong từng giai đoạn lịch sử. Vì vậy, mỗi giai đoạn phát triển của khoa học, nhất là khoa học tự nhiên, thì triết học cũng có một bước phát triển. Đúng như Ph. Ăng ghen đã nhận định: "Với những phát minh mới mang tính thời đại thì triết học cũng phải thay đổi hình thức ". Do đó, việc nghiên cứu lịch sử triết học không thể tách rời các giai đoạn phát triển của khoa học, nhất là khoa học tự nhiên. Trong lịch sử triết học luôn luôn diễn ra cuộc đấu tranh giữa các trường phái triết học, mà điển hình nhất là cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm. Trong quá trình đấu tranh đó, các trường phái triết học vừa gạt bỏ lẫn nhau, vừa kế thừa lẫn nhau, và mỗi hình thái đều không ngừng biến đổi, phát triển lên một trình độ mới cao hơn. Chính cuộc đấu tranh giữa các trường phái triết học đã làm cho triết học không ngừng phát triển. Đó là lôgíc nội tại trong quá trình phát triển của lịch sử tư tưởng triết học. Việc nghiên cứu lịch sử triết học không thể tách rời cuộc đấu tranh giữa các trường phái triết học trong lịch sử. Sự phát triển của triết học trong lịch sử không chỉ diễn ra quá trình thay thế lẫn nhau giữa các học thuyết triết học mà còn bao hàm sự kế thừa lẫn nhau giữa chúng. Các học thuyết triết học giai đoạn sau thường kế thừa những tư tưởng nhất định của triết học giai đoạn trước và cải biến, phát triển cho phù hợp với yêu cầu của giai đoạn mới. Đó chính là sự phủ định biện chứng trong lịch sử phát triển tư tưởng triết học. Việc nghiên cứu lịch sử triết học đòi hỏi phải nghiên cứu sự kế thừa lẫn nhau giữa các tư tưởng triết học. Lịch sử phát triển tư tưởng triết học không chỉ gắn liền với từng quốc gia, dân tộc, mà còn có sự tác động qua lại lẫn nhau, thâm nhập lẫn nhau giữa tư tưởng triết học của các quốc gia, dân tộc cũng như giữa các vùng
  5. 13 với nhau. Sự tác động qua lại lẫn nhau, thâm nhập lẫn nhau đó góp phần thúc đẩy tư tưởng triết học nhân loại nói chung, tư tưởng triết học từng dân tộc nói riêng phát triển. Sự phát triển của tư tưởng triết học vừa có tính dân tộc, vừa có tính nhân loại. Sự phát triển của triết học không chỉ trong sự tác động qua lại lẫn nhau, thâm nhập lẫn nhau giữa các tư tưởng triết học, mà còn giữa triết học với chính trị, tôn giáo, nghệ thuật Sự tác động qua lại lẫn nhau đó làm cho hình thức phát triển của triết học rất đa dạng. Triết học không chỉ là cơ sở lý luận cho các hình thái ý thức xã hội khác, mà nhiều khi còn thể hiện thông qua các hình thái ý thức xã hội khác, như biểu hiện thông qua chính trị, thông qua tôn giáo, thông qua nghệ thuật Điều đó cho thấy, nhiều khi nghiên cứu các tư tưởng triết học phải thông qua nghiên cứu, khái quát từ các hình thái ý thức xã hội khác. 3. Phân kỳ lịch sử triết học Lịch sử hình thành, phát triển triết học trải qua nhiều thời kỳ khác nhau. Phân kỳ lịch sử triết học là cơ sở để đi sâu nghiên cứu lịch sử triết học một cách khoa học. Tuy nhiên, cho đến nay vẫn còn nhiều quan điểm khác nhau về phân kỳ lịch sử triết học. Theo quan điểm Macxit, việc phân kỳ lịch sử triết học cần dựa trên những căn cứ cơ bản sau: Triết học là một hình thái ý thức xã hội và là một bộ phận cấu thành của kiến trúc thượng tầng, nó hình thành, phát triển gắn liền với sự hình thành, phát triển và thay thế lẫn nhau của các hình thái kinh tế - xã hội. Mỗi giai đoạn phát triển khác nhau của các hình thái kinh tế - xã hội sẽ hình thành nên các học thuyết triết học khác nhau. Cho nên phân kỳ lịch sử triết học cần phải dựa vào các giai đoạn phát triển và thay thế lẫn nhau của các hình thái kinh tế - xã hội. Đó là triết học xã hội nô lệ, triết học xã hội phong kiến, triết học thời kỳ quá độ từ xã hội phong kiến lên xã hội tư bản (thời kỳ phục hưng và cận đại), triết học trong xã hội tư bản Sự phát triển của triết học luôn luôn gắn liền với sự phát triển của khoa học tự nhiên và khoa học xã hội. Mỗi giai đoạn phát triển của khoa học, nhất là khoa học tự nhiên, triết học đều có bước phát triển mới. Vì vậy, phân kỳ lịch sử triết học còn phải gắn liền với các giai đoạn phát triển của khoa học tự nhiên. Như triết học thời kỳ khoa học tự nhiên mới bắt đầu hình thành thời kỳ cổ đại, triết học thời kỳ khoa học tự nhiên đi sâu vào khoa học thực nghiệm thế kỷ XVII - XVIII, triết học thời kỳ khoa học tự nhiên đi sâu vào khái quát những quy luật chung của tự nhiên cuối thế kỷ
  6. 14 XVIII đầu thế kỷ XIX, triết học trong thời kỳ khoa học tự nhiên bắt đầu vào nghiên cứu thế giới vi mô cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, triết học trong thời kỳ cách mạng khoa học và công nghệ hiện nay. Do nhiều yếu tố tác động khác nhau, lịch sử triết học còn có những bước ngoặt mang tính cách mạng trong quá trình phát triển. Điều đó đòi hỏi phân kỳ lịch sử triết học cần phải tính đến những bước ngoặt trong sự phát triển của triết học. Chẳng hạn, triết học cổ điển Đức vào cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX đã nâng phép biện chứng lên thành một hệ thống lý luận có tính khái quát cao. Đặc biệt phải nói đến sự ra đời của triết học Mác đã tạo ra một bước ngoặt cách mạng trong lịch sử triết học. Sự phát triển của triết học không thể tách rời những điều kiện cụ thể về tự nhiên, về kinh tế - xã hội, về văn hóa của từng vùng, từng dân tộc. Những điều kiện cụ thể đó tạo nên những nét độc đáo riêng về tư tưởng triết học của từng vùng, từng dân tộc. Vì vậy, phân kỳ lịch sử triết học còn phải gắn liền với từng vùng, từng dân tộc. Chẳng hạn phân ra triết học phương Đông và triết học phương Tây, trên cơ sở đó lại chia ra triết học ở các nước khác nhau và các thời kỳ khác nhau. Phân kỳ lịch sử triết học dựa trên nhiều căn cứ khác nhau, cho nên có nhiều cách phân kỳ khác nhau. Mỗi cách phân kỳ thỏa mãn được tiêu chí này lại hạn chế về tiêu chí kia. Để khắc phục điều đó, thông thường trong phân kỳ lịch sử triết học phải kết hợp nhiều tiêu chí. Trong cuốn tài liệu này, lịch sử triết học được chia ra: - Triết học phương Đông cổ, Trung đại - Triết học phương Tây cổ, Trung, Cận và hiện đại - Triết học Mác - Lênin Cách phân kỳ này vừa kết hợp nét đặc thù của từng vùng với các thời kỳ phát triển khác nhau của triết học gắn liền với các hình thái kinh tế - xã hội và với những bước ngoặt trong sự phát triển của triết học.
  7. 15 Chƣơng II KHÁI LƢỢC LỊCH SỬ TRIẾT HỌC PHƢƠNG ĐÔNG Theo nghĩa đầy đủ, khái niệm triết học Phương Đông không chỉ bao gồm những tư tưởng triết học ở các nước vùng châu Á mà còn bao gồm những tư tưởng triết học ở các nước vùng Trung Cận Đông. Tuy nhiên, nét đặc sắc của triết học Phương Đông so với triết học các nước phương Tây chính là triết học các nước vùng châu Á mà tiêu biểu là Trung Quốc và Ấn Độ thời Cổ, Trung đại. Đồng thời, với chiều dài lịch sử khoảng hai ngàn năm qua, những tư tưởng triết học Ấn Độ và Trung Quốc đã có một vai trò quan trọng trong lịch sử phát triển tư tưởng triết học và văn hoá Việt Nam. I. TRIẾT HỌC ẤN ĐỘ CỔ, TRUNG ĐẠI 1. Điều kiện ra đời và nét đặc thù của triết học Ấn Độ cổ, Trung đại Về địa lý. Ấn Độ Cổ đại là một bán đảo rộng lớn ở phía Nam châu Á, có điều kiện tự nhiên rất phức tạp: địa hình có nhiều núi non trùng điệp, có nhiều sông ngòi với những đồng bằng trù phú; Khí hậu có vùng nóng, ẩm, mưa nhiều, có vùng lạnh giá quanh năm tuyết phủ, lại có những sa mạc khô khan. Về phương diện lịch sử. Xã hội Ấn Độ cổ đại là một xã hội ra đời từ rất sớm: Khoảng thế kỷ XXV trCN trong lưu vực sông Ấn đã nảy nở một nền văn minh cao, được gọi là nền văn minh Sông Ấn hay Harappa. Khoảng thế kỷ XV trCN, các bộ lạc du mục Arya đã từ phía Bắc xâm nhập vào đất Ấn Độ. Họ dần định cư, rồi đồng hóa với dân bản địa Dravida, tạo thành cơ sở cho sự xuất hiện quốc gia, nhà nước lần thứ hai. Từ thế kỷ VII trCN đến thế kỷ XVI CN đất nước Ấn Độ phải trải qua hàng loạt biến cố lớn, đó là những cuộc chiến tranh thôn tính lẫn nhau giữa các vương triều trong nước và sự xâm lăng của các quốc gia bên ngoài. Vào thế kỷ XVIII, Ấn Độ bị đế quốc Anh đô hộ, từ đó Ấn Độ bước sang thời kỳ thống nhất về chính trị thúc đẩy sự kết hợp giữa văn hóa cổ truyền với văn hóa phương Tây. Về kinh tế - xã hội. Nét nổi bật của Ấn Độ cổ đại là sự tồn tại sớm và kéo dài kết cấu kinh tế xã hội theo mô hình "công xã nông thôn". Trong kết
  8. 16 cấu này, ruộng đất thuộc về nhà nước, dân công xã canh tác ruộng đất công và nộp tô cho nhà nước, nô lệ không có vai trò trong sản xuất. Trên cơ sở mô hình ấy, trong xã hội Ấn Độ cổ trung đại đã tồn tại rất dai dẳng sự phân chia đẳng cấp, sự phân biệt chủng tộc, dòng dõi, nghề nghiệp, tôn giáo làm cho kết cấu xã hội rất phức tạp. Về văn hóa. Ấn Độ Cổ đại được hình thành trên cơ sở điều kiện tự nhiên và hiện thực xã hội. Người Ấn Độ đã biết quả đất tròn quay xung quanh một trục, đã biết sáng tạo ra lịch pháp, đã có hệ thống số đếm thập phân, đã biết đến số không, đã có những thành tựu trong đại số, hình học, khai căn, các phép tính lượng giác, đường tròn, số , y học và hóa học phát triển. Các tập sử thi vĩ đại như Mahabharata và Ramayana cũng hình thành trong thời kỳ này. Đây cũng là thời kỳ phát triển tư duy trừu tượng, thời kỳ ra đời của các hệ thống tôn giáo, triết học. Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội và văn hoá luôn tác động mạnh đến con người Ấn độ, và để lại dấu ấn đậm nét, tạo nên cơ sở ra đời và quy định nội dung tính chất cuả nền triết học Ấn Độ Cổ, Trung đại. Nét đặc thù của tư tưởng triết học này chịu ảnh hưởng lớn của tư tưởng tôn giáo có tính chất "hướng nội". Xu hướng lý giải và thực hành những vấn đề nhân sinh quan dưới góc độ tâm linh tôn giáo nhằm đạt tới sự "giải thoát" là xu hướng trội của nhiều học thuyết triết học - tôn giáo Ấn Độ cổ , trung đại. 2. Tƣ tƣởng triết học Ấn Độ Cổ, Trung đại Người ta đã chia lịch sử hình thành và phát triển của triết học Ấn Độ Cổ, Trung đại thành ba thời kỳ lớn: Thời kỳ Véda (vào khoảng 1500 năm đến 1000 năm trCN); Thời kỳ cổ điển, hay còn gọi là thời kỳ Bàlamôn - Phật giáo (vào khoảng 700 năm trCN đến 600 năm CN); Thời kỳ sau cổ điển hay còn gọi là thời kỳ xâm nhập của Hồi giáo (vào khoảng 700 năm đến 1800 năm CN) a) Tư tưởng triết học thời kỳ Véda Véda, trong tiếng cổ Ấn Độ có nghĩa là tri thức, thường hiểu là tri thức tôn giáo. Trong nghĩa cụ thể, Véda là một khối lượng tác phẩm văn học đồ sộ được sáng tác trong khoảng thế kỷ XV trCN và được sưu tập, chép lại bằng tiếng Phạn cổ vào khoảng thế kỷ X trCN gọi là thánh kinh Véda. Bộ phận sớm nhất của văn học Véda là bốn tập Véda: Rigveda, Samaveda, Atharvaveda, Yajurveda. Bộ phận muộn của văn học Véda là Brahmana, Aranyaka và Upanisad. Nhìn chung, trong các tập này, chúng ta
  9. 17 chỉ thấy các ước vọng của con người, nó phản ánh một tín ngưỡng ma thuật và đa thần giáo, chưa có những khái quát triết học. Song, ta có thể nhận ra những bước phát triển mới của tư duy trừu tượng. Khuynh hướng rõ rệt là người Ấn Độ đi tìm những điểm giống nhau giữa vô vàn hiện tượng và sự vật khác nhau. Đi xa hơn, người ta thừa nhận một nguyên lý vũ trụ với sức mạnh vô hạn biểu hiện ra trong thiên nhiên, trong tinh thần và trong nghi lễ. Ở đây đã phôi thai hai quan niệm đối lập nhau mà ta có thể nhận thấy trong tư tưởng triết học về sau là quan niệm coi thế giới bị chi phối bởi một nguyên lý phi nhân cách và quan niệm coi một vị thượng đế nhân cách hóa điều khiển mọi quá trình vũ trụ. Upanisad là sách triết lý – tôn giáo cuối giai đoạn Véda. Upanisad có nghĩa là tri thức bí mật, thể hiện khát vọng hệ thống hóa các tín ngưỡng cổ. Vấn đề trước hết mà Upanisad quan tâm là mối quan hệ giữa “Tinh thần vũ trụ tối cao” (Brahman) và “Linh hồn” con người (Atman). Upanisad giải đáp một cách duy tâm rằng Brhaman là thực thể duy nhất, có trước, tồn tại vĩnh viễn, bất diệt, là cái từ đó tất cả thế giới đều nảy sinh ra và nhập về với nó sau khi chết. Tất cả mọi vật đều có Atman và Atman là một bộ phận của Brahman. Thứ hai, Upanisad cũng đã trình bày về thuyết luân hồi và cho rằng con người sau khi chết, sẽ lại tái sinh dưới một hình thức khác, người hoặc động vật. Các dạng tái sinh kiếp sau được quy định bởi các nghiệp đã có ở kiếp này. Để giải thoát linh hồn bất tử khỏi vòng vây hãm của luân hồi nghiệp báo, thoát khỏi sự chi phối của đời sống nhục dục thì phải có tri thức thần bí đặc biệt, muốn đạt được thì phải thiền. Thiền là bằng nhận thức trực giác, thực nghiệm tâm linh, con người mới nhận ra chân bản của mình khi đó linh hồn (Atman) mới đồng nhất được với tinh thần vũ trụ tối cao [Brahman]. Các sách Upanisad đã có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển hệ tư tưởng Ấn Độ, là cội nguồn tư tưởng cho nhiều khuynh hướng triết học và tôn giáo khác nhau ở Ấn Độ cổ đại. b) Tư tưởng triết học thời cổ điển Vào thời kỳ cổ điển (hay là Bàlamôn – Phật giáo), tuy nền kinh tế và xã hội nô lệ đã phát triển cao hơn trước nhưng vẫn bị kìm hãm bởi tính chất kiên cố của tổ chức công xã nông thôn, bởi sự phân chia đẳng cấp ngặt nghèo và sự thống trị của nhà nước quân chủ chuyên chế trung ương tập quyền. Về đời sống tinh thần, thế giới quan duy tâm, tôn giáo của kinh thánh Véda, Upanisad và đạo Bàlamôn được suy tôn là hệ tư tưởng chính thống ngự trị trong đời sống tinh thần của con người. Các trường phái triết