Giáo trình Phương pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ (Phần 1) - Trần Thị Hoàng Yến
Môn phương pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ là một khoa học thực hành.
Nó dựa trên đặc điểm ngôn ngữ nói chung, đặc điểm tiếng mẹ đẻ nói riêng, dựa vào quy luật tâm lý của quá trình tiếp thu tiếng mẹ đẻ ở từng lứa tuổi, dựa vào nguyên lý giáo dục để xác định một cách khoa học: mục đích, nhiệm vụ, nội
dung, phương pháp, biện pháp, các hình thức và phương tiện phát triển ngôn ngữ cho trẻ từ 0- 6 tuổi.
Nó dựa trên đặc điểm ngôn ngữ nói chung, đặc điểm tiếng mẹ đẻ nói riêng, dựa vào quy luật tâm lý của quá trình tiếp thu tiếng mẹ đẻ ở từng lứa tuổi, dựa vào nguyên lý giáo dục để xác định một cách khoa học: mục đích, nhiệm vụ, nội
dung, phương pháp, biện pháp, các hình thức và phương tiện phát triển ngôn ngữ cho trẻ từ 0- 6 tuổi.
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Giáo trình Phương pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ (Phần 1) - Trần Thị Hoàng Yến", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
- giao_trinh_phuong_phap_phat_trien_ngon_ngu_cho_tre_phan_1_tr.pdf
Nội dung text: Giáo trình Phương pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ (Phần 1) - Trần Thị Hoàng Yến
- ngữ mà các nhà giáo dục, các bậc phụ huynh có điều kiện để hiểu con cháu mình hơn. Từ đó uốn nắn, giáo dục và xây dựng cho các cháu những hành vi đạo đức trong sáng và chuẩn mực nhất. Ví dụ: khi trẻ được nghe kể câu chuyện ”Ba cô gái”, trẻ sẽ nhận ra rằng: cô Út mới thực lòng thương mẹ và cô được sống cuộc đời hạnh phúc. Từ đó, trẻ có suy nghĩ và hành động sao cho tốt hơn. Như vậy, ngôn ngữ rất quan trọng trong việc giáo dục đạo đức cho trẻ. Ngôn ngữ đã góp phần không nhỏ vào việc trang bị cho trẻ những hiểu biết về những nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức, rèn luyện cho trẻ những tình cảm và hành vi đạo đức phù hợp với xã hội mà trẻ đang sống. 4. Ngôn ngữ là công cụ để giáo dục thẩm mỹ cho trẻ Ngôn ngữ có vai trò quan trọng trong việc giáo dục, tác động có mục đích, có hệ thống nhằm phát triển ở trẻ năng lực cảm thụ cái đẹp và hiểu đúng đắn về cái đẹp trong tự nhiên, trong đời sống xã hội, trong nghệ thuật; giáo dục trẻ lòng yêu cái đẹp và năng lực tạo ra cái đẹp. Thật vậy, trong đời sống hàng ngày, khi giao tiếp với người lớn, trẻ nhận thức được cái đẹp ở xung quanh từ đó trẻ có thái độ trân trọng cái đẹp và tạo ra cái đẹp. Đặc biệt khi tiếp xúc với những bộ môn nghệ thuật như : âm nhạc, tạo hình, trẻ có thể cảm nhận được cái đẹp tuyệt vời của cuộc sống xung quanh qua âm thanh, đường nét Từ đó giúp trẻ nhạy cảm hơn đối với cái đẹp. Và khi trẻ đã làm quen với các tác phẩm văn học, trẻ có thể tìm thấy ở đó những hình tượng nhân vật điển hình, mỗi nhân vật mang một sắc thái riêng, một vẻ đẹp riêng (những nét đẹp về thể chất, về tinh thần). Từ đó, trẻ tự biết mình phải sống như thế nào. Ví dụ: Khi được nghe người lớn kể chuyện “Tấm Cám”, trẻ tìm thấy ở cô Tấm những nét đẹp bề ngoài và những nét đẹp trong tâm hồn: hiền lành, đôn hậu, chịu khó còn ở cô Cám là lười biếng, độc ác, tham lam Từ đó, trẻ hiểu ra rằng phải sống tốt và sống đẹp như cô Tấm. Chúng ta có thể khẳng định rằng ngôn ngữ đã góp phần không nhỏ vào vào quá trình giáo dục cho trẻ những tình cảm thẩm mỹ cao đẹp. 5. Ngôn ngữ đối với việc giáo dục thể chất cho trẻ Giáo dục thể lực cho trẻ trong trường mầm non là quá trình tác động chủ yếu vào cơ thể trẻ, tổ chức cho trẻ vận động, rèn luyện cơ thể, giữ gìn vệ sinh, tổ chức chế độ sinh hoạt hợp lý nhằm bảo vệ, làm cho cơ thể trẻ khoẻ mạnh, phát triển hài hoà, cân đối, sức khoẻ tăng cường, đạt đến trạng thái hoàn thiện về mặt thể chất. Để giáo dục thể lực cho trẻ, các nhà giáo dục đã kết hợp nhiều phương pháp khác nhau. Trong đó, ngôn ngữ đóng vai trò quan trọng đáng kể. 11
- Trong chế độ sinh hoạt hàng ngày, cô giáo và người lớn đã dùng ngôn ngữ hướng dẫn trẻ thực hiện tốt các yêu cầu do mình đề ra, góp phần làm cho cơ thể trẻ phát triển. Đặc biệt, trong các giờ thể dục, giáo viên dùng lời, tạo điều kiện giúp trẻ phát triển cân đối. Ngoài chế độ sinh hoạt hàng ngày, trẻ còn phải được ăn ngon, ăn đủ chất thì cơ thể trẻ mới phát triển hoàn thiện. Trong khi trẻ ăn, người lớn cần phải dùng ngôn ngữ động viên, kích thích để trẻ ăn được nhiều và ăn ngon hơn. Kết luận: Ngôn ngữ đóng vai trò quan trọng trong quá trình giáo dục trẻ trở thành những con người phát triển toàn diện. Sự phát triển chậm trễ về mặt ngôn ngữ có ảnh hưởng đến sự phát triển toàn diện của trẻ. Cho nên, các nhà giáo dục cần phải đề ra nhiệm vụ, nội dung, phương pháp phát triển ngôn ngữ trẻ đúng lúc và phù hợp với lứa tuổi. III. CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN QUÁ TRÌNH HỌC NÓI CỦA TRẺ Trẻ lớn lên không phải tự nhiên mà nói được, muốn nói được trẻ phải trải qua quá trình rèn luyện lâu dài và phức tạp. Quá trình lĩnh hội và rèn luyện tiếng nói phụ thuộc vào nhiều yếu tố như sau: 1. Yếu tố sinh lý: - Não: phải phát triển bình thường. Sự sắp xếp các tế bào võ não, sự phân chia các miền chức năng nghe, nói được hoàn thiện cơ bản vào lúc một tuổi rưỡ đến lúc hai tuổi. - Bộ máy phát âm: muốn nói được con người phải vận dụng cơ bắp của nhiều cơ quan khác nhau. + Phổi đóng vai trò quan trọng trong việc phát âm, là kho chứa không khí. Luồng không khí từ phổi đi ra làm rung động dây thanh, cọ xát vào các bộ phận khác để tạo ra việc chú ý đến tư thế của trẻ khi học, khi nói cũng như việc rèn luyện cho trẻ biết cách thở ra hít vào là điều rất cần thiết. Ví dụ: Để giúp trẻ điều khiển cơ môi và luyện hơi thở có thể sử dụng trò chơi: Thổi bóng hay làm chuồn chuồn bay lâu hơn. + Hầu và dây thanh: là chỗ gô ra ở cổ có bốn miệng sụn chính tạo thành một hộp có dây thanh. Dây thanh có hai màng mỏng có thể mở ra khép vào, lúc căng lúc chùng khi nói. Dây thanh dài khoảng 20mm và dày lên theo lứa tuổi. + Khoang miệng và khoang mũi: có vai trò như hộp cộng hưởng biến đổi âm thanh do dây thanh phát ra. Âm thanh phát ra từ dây thanh được uốn nắn qua miệng và hốc mũi trở nên đa dạng, dễ nghe. Muốn nói được con người không chỉ có bộ máy phát âm bình thường mà bộ máy này cần phải được rèn luyện đúng lúc, đúng mức. Cần phải tìm mọi cách tác động đến thời kỳ phát triển ngôn ngữ quan trọng này (từ sơ sinh đến 7 tuổi), thời kỳ mà bắt đầu sử dụng cơ chế vận động ngôn ngữ và những khuyết tật của người lớn đều do sự phát triển không đầy đủ của cơ chế vận động từ khi còn rất bé. 12
- Ví dụ: Để luyện cơ quan phát âm cho trẻ có thể sử dụng các bài tập luyện cơ môi, cơ hàm, hàm dưới sau đây: Đánh răng: luyện cơ lưỡi; Trốn tìm lưỡi: luyện cơ lưỡi, hàm dưới; Thi cười: luyện cơ môi. - Tai nghe: muốn học nói được thì trước tiên trẻ phải xem người lớn nói như thế nào mới bắt chước được. Trẻ bị điếc không thể học nói được. Muốn nói được đòi hỏi cơ quan thính giác của trẻ phát triển bình thường để thu nhận và phân biệt âm thanh ngôn ngữ một cách chính xác tinh tế. Ở trường mầm non cần chú ý vấn đề rèn luyện thính giác cho trẻ. Ví dụ: có thể sử dụng các trò chơi luyện thính giác: Tiếng kêu ở đâu hay Nghe thấy tiếng gì? 2. Yếu tố tâm lý Loại yếu tố thứ hai ảnh hưởng đến quá trình học nói của trẻ là yếu tố tâm lý. Sự phát triển các chức năng ngôn ngữ ở trẻ có mối quan hệ tương hỗ qua lại với sự phát triển của tư duy. Việc tiếp thu ngôn ngữ còn phụ thuộc vào khả năng tri giác, sự tinh tế nhạy bén, khối lượng cũng như thời gian chú ý, khả năng ghi nhớ, óc sáng tạo, ý chí, tình cảm và tính cách của trẻ cũng ảnh hưởng đến quá trình học nói. Hiện tượng trẻ chậm nói so với mức bình thường thường thấy ở trẻ quá rụt rè, nhút nhát, trầm lắng, ít chan hoà với tập thể hoặc thường thấy ở trẻ bị chấn động tâm lý nặng dẫn đến việc trẻ bị nói lắp, nói ngọng hoặc thậm chí không nói được. 3. Yếu tố xã hội Đây là yếu tố quan trọng hàng đầu, có ảnh hưởng quyết định đến việc rèn luyện và phát triển tiếng nói của trẻ. Muốn nói được, trẻ phải sống trong xã hội loài người. ở đây cũng cần nhắc đến trường hợp xảy ra từ xa xưa: Vua Phiđric Hôlengtaophen đệ nhị đã quyết định tìm hiểu xem con người sẽ phát triển như thế nào, sẽ nói tiếng gì nếu không dạy nói. Ông đã tách một số trẻ nhỏ từ khi chưa biết nói ra khỏi xã hội loài người và cấm không cho ai được nói chuyện và tiếp xúc với chúng, kể cả những người có nhiệm vụ chăm sóc những trẻ đó. Kết quả là những đứa trẻ đáng thương này không biết nói gì và chết rất sớm. Hay một ví dụ khác: Đó là hai cô gái ấn Độ được tìm thấy năm 1921 trong một vùng ít người ở phía đông ấn Độ. Họ sống chung với bầy sói trong hang, không nói được và biết hú như tiếng sói. Như vậy, xã hội loài người là nguồn phát ra hệ thống tín hiệu thứ hai tác động lên cơ quan thần kinh, kích thích bộ máy phát âm hoạt động. Trẻ học nói trong môi trường giao tiếp tự nhiên và thường xuyên quan hệ với thế giới xung quanh, các quá trình tiếp xúc này có thể kìm hãm hoặc tạo điều kiện cho việc học nói của trẻ. Dưới tác động của yếu tố tâm lý, sinh lý và xã hội, kỹ năng ngôn ngữ của trẻ dần dần được hình thành trong quá trình rèn luyện lâu dài. 13
- IV. CÁC GIAI ĐOẠN PHÁT TRIỂN NGÔN NGỮ CỦA TRẺ EM Sự phát triển ngôn ngữ của trẻ em được các nhà tâm lý – ngôn ngữ học nhìn nhận ở những góc độ khác nhau. L.S Vưgôtxky xuất phát từ mục đích mà nhìn nhận: “Bản chất sự phát triển ngôn ngữ nhằm mục đích giao tiếp và nhận thức và tất nhiên sự phát triển ngôn ngữ của trẻ không chỉ thuần tuý dựa trên sự phát triển khả năng nhận thức của trẻ”. Nhấn mạnh vai trò giao tiếp của ngôn ngữ, A. A Lêonchiep lại cho rằng: “Sự phát triển lời nói của trẻ em trước hết là sự phát triển của phương thức giao tiếp”. Nguyễn Huy Cẩn và K.Hai-nơ Dich đều thống nhất với nhau rằng khi cho rằng: Sự phát triển ngôn ngữ của trẻ trải qua các giai đoạn từ thấp đến cao, phù hợp với các giai đoạn nhất định của lứa tuổi; có thể tìm thấy nguồn gốc của sự phát triển ngôn ngữ ở các giai đoạn trước. Như vậy, có thể nhận thấy rằng: Sự phát triển ngôn ngữ của trẻ là một quá trình từ thấp đến cao với các giai đoạn mang những đặc trưng khác nhau tuỳ thuộc vào độ tuổi của nhà trẻ; ở mỗi giai đoạn có sự kế thừa và phát triển những thành tựu của các giai đoạn trước. Các nhà ngôn ngữ học thống nhất với nhau chia sự phát triển ngôn ngữ của trẻ em thành hai giai đoạn: giai đoạn tiền ngôn ngữ và giai đoạn ngôn ngữ chính thức. 1. Giai đoạn tiền ngôn ngữ Đây là thời kì đầu tiên trong quá trình học nói của trẻ. Giai đoạn này kéo dài khoảng 12 tháng tuổi. Các nhà tâm lý học cho rằng thời kỳ tiền ngôn ngữ này là chung cho tất cả các ngôn ngữ và thời kỳ bập bẹ của trẻ em toàn thế giới đều như nhau. Điều này chứng tỏ chúng ta sinh ra đã có sẳn bản năng giao tiếp. Giai đoạn này giao lưu xúc cảm chiếm vai trò chủ đạo. Giai đoạn này chỉ xuất hiện một số dấu hiệu báo trước của các chức năng ngôn ngữ sắp hình thành. Ở giai đoạn trẻ bắt đầu tập sử dụng cơ quan phát âm, hình thành phản xạ vận động có điều kiện. Từ tháng thứ hai ở trẻ xuất hiện những tiếng động, tiếng huýt không rõ nét. Đến tháng thứ ba trẻ bắt đầu bập bẹ gừ gừ như chim. Đặc biệt khi người lớn nói chuyện với trẻ ở xuất hiện cảm xúc tổng hợp tích cực. Đến tháng thứ năm, thứ sáu trẻ có khả năng phân biệt từ, âm tiết được nhấn mạnh trong lời nói: ba, mẹ, măm Trẻ có thể thực hiện một số mệnh lệnh hoặc yêu cầu của người lớn. Nhưng điều đó không có nghĩa lúc trẻ dã lĩnh hội được nghĩa của từ. Đây chỉ là sự hình thành phản xạ có điều kiện, gắn liền với hoàn cảnh, với hình thức âm thanh, ngữ điệu lời nói, và cử chỉ của người lớn khi nói. Cuối năm thứ nhất, đầu năm thứ hai ở trẻ xuất hiện ngôn ngữ hoàn cảnh, từ đó trẻ dùng mang nhiều nghĩa, tuỳ lúc, tuỳ nơi Muốn hiểu được người lớn phải dựa vào hoàn cảnh của trẻ khi nói. Sau giai đoạn này, các chức năng ngôn ngữ của trẻ được hình thành không phải thông qua mối quan hệ trực tiếp với hệ thống tín hiệu thứ hai nữa. 14
- 2. Giai đoạn ngôn ngữ chính thức Bắt đầu từ tháng 12 trở đi ở trẻ xuất hiện những âm bập bẹ có nghĩa đầu tiên và ngay lập tức trẻ huy động chúng vào giao tiếp với những người xung quanh. Các âm bập bẹ nhanh chóng mất đi, nhường chỗ cho các từ tham gia vào việc cấu tạo câu để giao tiếp. Những từ đầu tiên xuất hiện, các kiểu câu có cấu tạo đơn giản gồm 2- 3 từ xuất hiện khiến khả năng giao tiếp của trẻ càng tăng lên. Trẻ tích cực tham gia vào giao tiếp và sử dụng ngôn ngữ để giao tiếp. Nhu cầu giao tiếp càng tăng lên thúc đẩy hoạt động giao tiếp ngôn ngữ. Kết quả là các kỹ năng giao tiếp được hình thành. Đến 7 tuổi quá trình hình thành các chức năng ngôn ngữ của trẻ kết thúc về cơ bản. V. CÁC LÝ THUYẾT VỀ SỰ PHÁT TRIỂN NGÔN NGỮ CỦA TRẺ EM Ngôn ngữ - thành tựu lớn nhất của con người phát triển với tốc độ cực lớn trong những năm đầu của cuộc đời. Một tuổi, Nam đã biết sử dụng từ đơn để gọi tên vật thể quen thuộc và thể hiện suy nghĩ của mình. Ba tuổi Lan biết sử dụng một số cách thức giao tiếp đơn giản. Trẻ đã biết liên kết các từ thành câu chưa từng nghe trước đó. Bốn tuổi, Huy đã biết nói câu dài và câu có cấu trúc tương đối phức tạp. Khi nói chuyện về chủ đề nào đó, bé đã tỏ ra có khả năng giao tiếp. Sự phát triển ngôn ngữ nhanh chóng của trẻ đã và đang đặt ra những vấn đề cho các nhà nghiên cứu khoa học. Chẳng hạn: - Vốn từ to lớn và hệ thống ngữ pháp phức tạp được trẻ làm quen như thế nào? - Ngôn ngữ là một năng lực tách biệt hay là đơn giản chỉ là một thành tố của năng lực tư duy nói chung. - Nếu không được giao tiếp trong môi trường ngôn ngữ, trẻ em có thể tự sáng tạo ra ngôn ngữ được không? - Tất cả trẻ em đều lĩnh hội ngôn ngữ theo cách thức chung hay còn có sự khác biệt về văn hoá và cá nhân? Trong suốt nửa thiên niên kỷ này, những nghiên cứu về sự phát triển trẻ em chủ yếu mang tính mô tả - nhằm xây dựng những chuẩn mực về các giai đoạn phát triển ngôn ngữ. Những nghiên cứu đầu tiên đã vạch ra được các mốc quan trọng trong sự phát triển ngôn ngữ của trẻ trên toàn cầu: 6 tháng tuổi bập bẹ, một tuổi nói từ đầu tiên, liên kết các từ vào cuối tuổi thứ hai, lĩnh hội vốn từ tương đối lớn và cấu trúc ngữ pháp vào khoảng 4-5 tuổi. Trình tự của các thành tựu này cho thấy quá trình này được quy định bởi sự trưởng thành và chín muồi của đứa trẻ tuân theo quy luật khách quan. Cùng lúc đó, ngôn ngữ có vẻ là hiện tượng như do học tập mà có. 15
- Tất cả những nghịch lý trên đã sinh ra và được phản ánh trong hai học thuyết trái ngược nhau về sự phát triển ngôn ngữ ở trẻ em. 1. Lý thuyết “ Hành vi chủ nghĩa” của B. F SKinner Trong tác phẩm “ Hành vi bằng lời” xuất bản năm 1957, B. F SKinner kết luận rằng : “ngôn ngữ giống như bất kỳ một hành vi âm thanh nào đó, cha mẹ nhận những âm giống từ, khích lệ các âm thanh bằng cử chỉ âu yếm, nụ cười và nhắc lại các từ này cho trẻ nghe”. Ví dụ: Lan 12 tháng phát ra các âm ba- ba- ba - bà- bà Bố mẹ nghe và nhắc lại các âm này và dạy cháu gọi bà bằng “bà”. Như vậy cháu có vốn từ này rất sớm. “Bắt chước” cùng với kết hợp hành vi được dùng để giải thích nguyên nhân trẻ nắm bắt từ ngữ một cách nhanh chóng, thậm chí cả cấu trúc ngữ pháp phức tạp. Bắt chước cùng bắt buộc và động viên khích lệ khi trẻ nói đúng sẽ giúp trẻ lĩnh hội ngôn ngữ nhanh chóng hơn. Tuy nhiên hiện nay các nhà nghiên cứu ít có xu hướng theo quan điểm chủ nghĩa hành vi trong nghiên cứu trẻ em. Một mặt, nếu trẻ có được sự dạy dỗ tích cực ở phía người lớn thì đến 6 tuổi trẻ sẽ có vốn từ khổng lồ. Mặt khác, người ta cũng có thể quan sát thấy trẻ em sáng tạo ra những dạng ngôn ngữ mà trẻ chưa hề học được từ phía người lớn. Như vậy, có thể giả định rằng trẻ em đã tự phát triển ngôn ngữ của mình và tự xây dựng, tìm hiểu các quy luật về ngữ pháp. Tuy vậy tư tưởng của SKinner và các hành vi chủ nghĩa khác không thể phủ nhận hoàn toàn. Trong thực tế chúng ta thấy vai trò của cha mẹ và những nhà giáo dục là rất to lớn trong sự phát triển ngôn ngữ trẻ em. Những nguyên tắc của hành vi chủ nghĩa có vai trò lớn trong giáo dục khuyết tật về ngôn ngữ giúp trẻ vượt qua những trì trệ về ngôn ngữ (Rat-net, 1993). 2. Lý thuyết “ Tự nhiên chủ nghĩa” của Noam Chomsky. Nhà ngôn ngữ học Noam Chomsky (1957) trong tác phẩm: “Cấu trúc ngữ nghĩa” đã phân tích có phê phán lý thuyết của Skinner, lần đầu tiên thu phục thế giới rằng: trẻ em đóng vai trò chính, là nhân tố chính trong sự phát triển ngôn ngữ của mình. Ngược lại hoàn toàn với chủ nghĩa hành vi, Chomsky lập luận rằng những cấu trúc bên trong là năng lực hiểu và sản sinh ngôn ngữ. Ông coi ngôn ngữ là hiện tượng có cơ sở sinh học, là thành tựu của con người. Lý thuyết của ông là lý thuyết theo khuynh hướng tự nhiên. Nghiên cứu những thành tích về ngữ pháp của trẻ em, Chomsky cho rằng: những nguyên tắc để xây dựng câu là quá phức tạp để dạy trẻ cũng như rất khó khăn cho việc lĩnh hội đối với trẻ nhỏ tuổi. Nhưng con người sinh ra cùng với cơ quan lĩnh hội ngôn ngữ - mô hình cấu trúc bẩm sinh có cơ sở khoa học giúp cho việc lĩnh hội ngôn ngữ, chỉ cần có thêm tác động của môi trường bên ngoài. Thực tế có hai nhóm tiếp cận: Nhóm một tiếp cận đã coi trọng vai trò của cảm giác và đưa ra một vài quy trình để phân tích kích thích như điểm khởi đầu của sự phát triển. Quan điểm này bênh vực lý luận của Piget cho rằng: những mối tác động qua lại phong phú giữa 16
- đứa trẻ và môi trường chính là động lực đầu tiên thúc đẩy cho sự phát triển nhận thức. Quan điểm này có tính hành vi chủ nghĩa và tính lĩnh vực chung. Nhóm hai, ngược lại, là quan điểm tự nhiên chủ nghĩa và tính lĩnh vực đặc trưng. Theo quan điểm này cơ quan lĩnh hội ngôn ngữ cho phép trẻ lĩnh hội ngôn ngữ vốn từ đầy đủ, tổ hợp từ thành những câu đúng khi phát âm và hiểu nghĩa câu nghe được.Vậy làm thế nào để một cơ quan lĩnh hội ngôn ngữ có thể đảm bảo cho trẻ lĩnh hội được các ngôn ngữ đa dạng trên thế giới. Theo Chomsky (1976) trong cơ quan lĩnh hội ngôn ngữ có vùng ngữ pháp toàn cầu- kho chứa tất cả các nguyên tắc của tất cả ngôn ngữ trên thế giới. Trẻ em sẽ sử dụng những kiến thức này để giải mã các phạm trù ngôn ngữ và mọi quan hệ trong bất kỳ quan hệ nào mà trẻ em được tiếp xúc. Khi đưa ra hệ thống ngữ pháp toàn cầu, Chomsky đã nhấn mạnh đặc điểm chung của các loại ngôn ngữ trên thế giới. Thêm vào đó, cơ quan lĩnh hội ngôn ngữ (LDA) đặc biệt dành cho chức năng lĩnh hội ngôn ngữ, những chức năng tư duy cấp cao không cần thiết để tiếp thu tất cả các cấu trúc ngôn ngữ. Thay vào đó trẻ em làm điều này một cách tự phát. Vì vậy đối nghịch với quan điểm hành vi chủ nghĩa, quan điểm tự nhiên chủ nghĩa coi việc dạy có chủ định của cha mẹ là không cần thiết cho sự phát triển ngôn ngữ. Thay vào đó, mặc dầu có tính di truyền phức tạp (LAD) đảm bảo rằng ngôn ngữ được lĩnh hội ngay từ giai đoạn đầu (Pinker, 1994). Những bằng chứng ủng hộ quan điểm tự nhiên chủ nghĩa: Nhiều nghiên cứu cho rằng: trẻ em có khả năng to lớn để sáng tạo ra hệ thống ngôn ngữ mới. Cung cấp chứng cớ để ủng hộ quan điểm này có ba chứng cớ: - Dạy loài vật hệ thống ngôn ngữ - Định vị các chức năng ngôn ngữ trên bán cầu đại não của con người. - Tìm xem có thực sự tồn tại một giai đoạn nhạy cảm đến sự phát triển ngôn ngữ hay không? Sau đây chúng ta sẽ lần lượt xem xét từng vấn đề: + Một con vượn có thể học ngôn ngữ được không? Có phải năng lực ngôn ngữ chỉ có ở con người? Để giải quyết vấn đề người ta đã có gắng nhiều lần dạy vượn người - một chủng loại gần nhất trong bậc thang tiến hoá - học ngôn ngữ. Vượn người có một vài năng lực giao tiếp bằng ký hiệu.Ví dụ: các vượn người sử dụng một vài ký hiệu có chủ định như vẫy tay để yêu cầu đưa thức ăn từ vượn mẹ, giống như trẻ em thường làm khi chưa biết nói.Tuy nhiên khả năng lĩnh hội ngôn ngữ của trẻ còn rất hạn chế. Sau một thời gian dài (có thể nhiều tháng hay nhiều năm) dạy nói cho vượn người vốn từ cơ bản chỉ tương đương với trẻ 3- 4 tuổi. Và không có chứng cớ nào để kết luận chúng có thể lĩnh hội hệ thống ngữ pháp phức tạp. + Vùng ngữ pháp trên não bộ 17
- Con người có vùng chuyên biệt trên não bộ giúp lĩnh hội các kỹ năng ngôn ngữ. Nói chung vùng ngữ pháp cư trú trên bán cầu trái của não. ở đó có hai cấu trúc đặc trưng. Vùng Broca nằm ở thuỳ trước, điều khiển sự sản sinh ngôn ngữ. Tổn thương ở vùng này dẫn đến sự rối loạn trong giao tiếp, con người mặc dù có thể hiểu ngôn ngữ nhưng nói chậm, không có ngữ pháp, không biểu cảm. Ngược lại, vùng Wenicker ở thuỳ dương trái chịu trách nhiệm thông hiểu ngôn ngữ. Khi vùng này bị tổn thương, ngôn ngữ vẫn có nhưng chứa đựng nhiều từ không có nghĩa, năng lực lĩnh hội ngôn ngữ của con người cũng bị tổn thương. Thêm vào đó các nhà nghiên cứu còn cho rằng khi trẻ em lĩnh hội một ngôn ngữ nào đó não bộ trở nên chuyên môn hoá hơn. - Có tồn tại một giai đoạn nhạy cảm đến sự phát triển ngôn ngữ hay không? Erick Lenberg (1967) đầu tiên đưa ra giả thuyết rằng trẻ em phải lĩnh hội ngôn ngữ trong suốt giai đoạn chuyên biệt hoá chức năng của não bộ và nó kéo dài suốt lứa tuổi trưởng thành. Nếu quan điểm này đúng đắn, nó sẽ cung cấp chứng cớ cho lý thuyết của chủ nghĩa tự nhiên cho rằng: sự phát triển ngôn ngữ có đặc thù sinh học duy nhất. Bằng chứng là họ xem xét các trường hợp trẻ em bị bỏ rơi và ít được giao tiếp với người khác trong suốt thời kỳ ấu thơ. Nghiên cứu gần đây nhất là một em Genie – một em bé bị bỏ rơi một mình trong phòng học phía sau nhà khi em mới 20 tháng tuổi mà không ai biết đến tận 13 tuổi. Không ai được nói với em và em bị đánh mỗi khi làm ồn. Qua một vài năm được các nhà giáo dục chăm sóc hết lòng, ngôn ngữ của Genie được phát triển nhưng không đạt được kết quả như các em bé bình thường khác. Mặc dù em lĩnh hội vốn từ to lớn và em có thể hiểu tốt trong giao tiếp bình thường nhưng năng lực về ngữ pháp của em bị hạn chế (giống như vùng ngôn ngữ ở não bộ bị tổn thương). Trường hợp trên phù hợp với giả thuyết của Erick Lenberg cho rằng ngôn ngữ phát triển có hiệu quả nhất trong quá trình chuyên biệt hoá chức năng của não bộ. Những ưu điểm- hạn chế của quan điểm Tự nhiên chủ nghĩa: Lý thuyết của Noam Chomsky có ảnh hưởng lớn đến các quan điểm hiện thực về sự phát triển ngôn ngữ. Hiện nay người ta chấp nhận rộng rãi rằng yếu tố tiên quyết sinh học duy nhất ở con người có vai trò to lớn trong việc học ngôn ngữ. Nhưng quan điểm của Chomsky về sự phát triển ngôn ngữ vẫn đứng trước một số thách thức : Đầu tiên, sự so sánh giữa các ngôn ngữ khác nhau đã bộc lộ các hệ thống ngữ pháp hoàn toàn khác nhau. Chomsky và một số nhà nghiên cứu khác đã cố gắng tìm ra một hệ thống ngữ pháp toàn cầu, một tập hợp duy nhất cho tất cả các ngôn ngữ trên thế giới đã không có kết quả. Người ta phê phán Chomsky về ý tưởng ngữ pháp toàn cầu, cái mà ông cho rằng là có cơ sở nhằm tìm ra các quy luật ngữ pháp chung trong lý thuyết của ông. 18