Giáo trình Phương pháp giáo dục thể chất cho trẻ (Phần 2) - Nguyễn Thị Mỹ Trinh

1. Các hình thức GDTC mầm non
Trong quá trình giáo dục thể chất cho trẻ mầm non, có những hình thức giáo dục thể thể chất sau: Tiết học thể dục và giáo dục thể chất trong đời sống hàng ngày của trẻ (thể dục buổi sáng, phút thể dục, trò chơi vận động, dạo chơi, tham quan, hội thi thể dục thể thao, tổ chức giáo dục thể chất trong thời gian tự hoạt động của trẻ).
pdf 55 trang Khánh Bằng 29/12/2023 2540
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Giáo trình Phương pháp giáo dục thể chất cho trẻ (Phần 2) - Nguyễn Thị Mỹ Trinh", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfgiao_trinh_phuong_phap_giao_duc_the_chat_cho_tre_phan_2_nguy.pdf

Nội dung text: Giáo trình Phương pháp giáo dục thể chất cho trẻ (Phần 2) - Nguyễn Thị Mỹ Trinh

  1. Tại địa điểm chơi, cô giáo cho trẻ khởi động, sau đó cô cho trẻ tự lựa chọn trò chơi (nên hướng về trò chơi vận động), có thể là những trò chơi bóng, gậy, vòng hoặc những vận động cơ bản. Trong quá trình trẻ vận động cô giáo có thể tổ chức trẻ theo nhóm để cho tiện theo dõi và uốn nắn trẻ. Cuối cuộc dạo chơi, cô giáo cho cả lớp chơi trò chơi vận động nhẹ nhàng (như liệu pháp trò chơi hồi sức cho trẻ). 1.6. Tham quan Tham quan có tác dụng giúp trẻ trực tiếp nhìn những hình ảnh động vật-nhân vật mà trẻ bắt chước khi chơi trò chơi vận động hoặc những động tác thể dục và sự luyện của các vận động viên, những dụng cụ thể dục thể thao tham quan thường sử dụng nhiều với trẻ mẫu giáo lớn. Mỗi học kỳ cô giáo nên tổ chức ít nhất một lần. Địa điểm tham quan của trẻ thường là: Vườn bách thú, sân vận động, phòng thể dục thể thao. Sự chuẩn bị cho cuộc đi tham quan phải rất chu đáo, cô giáo phải liên hệ trước với những nơi sẽ đưa trẻ đến tham quan, có kế hoạch cụ thể về thời gian, người phụ trách trẻ. Trước hoặc sau khi đi tham quan, cô giáo có thể cho trẻ xem tranh ảnh, tài liệu trực quan, phim đèn chiếu về động vật, nhân vật mà trẻ sẽ hoặc đã được tiếp xúc, hoặc cô giáo có thể tổ chức đàm thoại với trẻ, đặt ra những câu hỏi kích thích sự tò mò và củng cố những hình ảnh đã có ở trẻ. Trong quá trình tham quan, cô yêu cầu trẻ giữ gìn trật tự, hướng dẫn trẻ quan sát, chẳng hạn cuộc sống của động vật, chim, thỏ, công việc luyện tập của những nhà thể thao (kích thích lòng yêu thể dục thể thao ở trẻ). 1. 7. Hội thi thể dục - thể thao ở trường mầm non (hội khoẻ) "Hội thi thể dục thể thao” nhằm rèn luyện cơ thể trẻ, khích lệ lòng yêu thích thể dục thể thao, góp phần củng cố và hoàn thiện kỹ năng vận động ở trẻ. Nó xác định kết quả giáo dục của cô giáo và sự tập luyện của trẻ, tạo ra không khí thi đua rèn luyện thể dục giữa các lớp trong một trường và các trường với nhau. 55
  2. Hội khoẻ được tổ chức nhằm mục đích cho tất cả các trẻ tham gia hoạt đông thể dục thể thao một cách tích cực, hào hứng, sôi nổi. Qua đó thúc đẩy các hoạt động tập thể, gây không khí náo nức cho trẻ vì được tham gia "Biểu diễn" "Thi tài" của tập thể lớp mình cho các bạn xem. Trong quá trình hoạt động tập thể như vậy sẽ phát triển ở trẻ tính linh hoạt, mạnh dạn, tinh thần tập thể và để lại cho trẻ những cảm xúc vui tươi phấn khởi, óc thẩm mỹ về "những vận động viên tý hon" khi biểu diễn. Hội khoẻ được tiến hành một lần trong năm, vào khoảng tháng 3 hoặc tháng 4. Hội khoẻ cần được chuẩn bị một cách khoa học. Cần có cuộc họp bàn chung giữa ban giám hiệu trường và các cô giáo về các bước, nội dung thực hiện trong hội khoẻ, nhà trường tạo điều kiện cơ sở vật chất cho các lớp: dụng cụ, nhạc cụ, quần áo , chuẩn bị địa điểm, tiến hành trang trí Cần thành lập các ban tổ chức ban thi đua, người điều khiển chính cuộc thi. Nội dung hội thi thể dục thể thao có thể là sự đồng diễn thể dục (thể dục tay không, thể dục dụng cụ, vòng, gậy ), chuyển đội hình, trò chơi vận động sau đó có thể là biểu diễn thể dục cá nhân (bật sâu, bật xa, chạy, ). Hội khoẻ thường tiến hành với lứa tuổi mẫu giáo, thời gian khoảng từ 45 đến 60 phút. 1.8. Tổ chức vận động trong thời gian tự hoạt động của trẻ- tập luyện mọi nơi mọi lúc Rèn luyện thể dục cho những trẻ hoặc những nhóm trẻ tập luyện các bài tập thể dục chưa đạt yêu cầu, những trẻ kém năng động, chậm chạp, nhằm mục đích cho trẻ đạt yêu cầu giáo dục thể chất chung phù hợp với lứa tuổi. Ngoài ra, cô giáo còn bồi dưỡng cho những trẻ có năng khiếu - khả năng về thể dục thể thao. Đối với những trẻ này cô đòi hỏi cao hơn yêu cầu chung của chương trình thể dục hiện hành. Cô giáo tiến hành hình thức này vào thời gian tự hoạt động của trẻ: Buổi sáng sau các tiết học hoặc sau buổi chơi, giờ chơi buổi chiều. 56
  3. Con đường giáo dục cá biệt này cô giáo áp dụng cho trẻ ở lứa tuổi mầm non dựa theo nguyên tắc rèn luyện các bài tập vận động cho trẻ. Cô giáo sử dụng các biện pháp rèn luyện thể chất (thực hiện các bài tập vận động). Nội dung và thời gian tiến hành phụ thuộc vào lứa tuổi và sức lực của trẻ. Cô giáo phải ghi nhớ những trẻ nào ở lớp mình phụ trách còn kém về mặt nào, kỹ năng vận động nào chưa đạt yêu cầu cụ thể là những vận động gì? những động tác gì?. Khi tiến hành rèn luyện với cá nhân hoặc theo nhóm (từ 8 đến 10 cháu) cô cần chú trọng rèn luyện và củng cố những vận động nào chưa đạt ở trẻ (tất nhiên phù hợp với yêu cầu lứa tuổi của trẻ). Ngoài ra, cô giáo nên tạo điều kiện đáp ứng nhu cầu vận động của trẻ ở các lứa tuổi, có thể cho trẻ chơi các dụng cụ thể dục thể thao như: cầu trượt, đu quay, bóng, tuy nhiên, cô cần theo dõi quá trình tự chơi của trẻ nhằm đảm bảo an toàn cho chúng. 2. Các phương tiện GDTC mầm non 2.1. Đặc điểm chung của phương tiện GDTC mầm non Để giải quyết nhiệm vụ GDTC mầm non người ta sử dụng những phương tiện cơ bản sau đây: yếu tố vệ sinh, yếu tố thiên nhiên, bài tập vận động. Tác động toàn diện của GDTC mầm non chỉ có được khi sử dụng đồng bộ các phương tiện nói trên, bởi mỗi phương tiện lại có những tác động khác nhau đến các cơ quan trong cơ thể trẻ. a) Yếu tố vệ sinh: chế độ làm việc, nghỉ ngơi, ăn ngủ, vệ sinh cá nhân và công cộng, trang thiết bị luyện tập Các yếu tố vệ sinh nói trên góp phần nâng cao hiệu quả tác động của các bài tập vận động đến các cơ quan trong cơ thể. Ví dụ: tiết học thể dục có tác động tốt đến sự phát triển của hệ cơ và hệ xương. Phòng tập thể dục, đồ dụng dụng cụ tập luyện, đồ chơi, quần áo, giày đảm bảo các tiêu chuẩn vệ sinh sẽ giúp phòng bệnh cho trẻ. Đảm bảo chế độ vệ sinh còn hình thành ở trẻ 57
  4. những cảm xúc tốt đẹp và tạo ra những điều kiện thuận lợi để lĩnh hội bài tập vận động. Yếu tố vệ sinh còn có ý nghĩa khác: nó góp phần đảm bảo sự hoạt động bình thường của các cơ quan và các bộ phận trong cơ thể. Ví dụ: dạo chơi và chế độ dinh dưỡng hợp lý sẽ ảnh hưởng tốt đến hoạt động của hệ tiêu hoá, từ đó giúp các bộ phận trong cơ thể có đủ chất dinh dưỡng cần thiết để hoạt động bình thường, đảm bảo sự phát triển cho đứa trẻ. Chế độ chiếu sáng hợp lý sẽ ngăn chặn sự hình thành những bệnh về mắt, tạo điều kiện thuận lợi cho sự thích ứng của trẻ trong không gian. Hay việc tuân thủ ngiêm ngặt chế độ sinh hoạt trong ngày một cách khoa học sẽ giúp hình thành những đức tính cần thiết: tính tổ chức, tính kỷ luật b) Yếu tố thiên nhiên (ánh nắng, không khí và nước) làm tăng các tác động có lợi của các bài tập vận động đến các cơ quan trong cơ thể, tăng khả năng làm việc của con người. Những tiết học thể dục ngoài trời, khi có ánh nắng hay trong nước (bơi) làm hình thành ở trẻ những cảm xúc tốt đẹp, hoàn thiện các chức năng của các cơ quan và bộ phận trong cơ thể (tăng cường trao đổi chất, tăng khả năng hấp thụ ôxy ). ánh nắng, không khí và nước sử dụng để rèn luyện các cơ quan trong cơ thể, để nâng cao tính thích ứng của chúng với sự thay đổi môi trường xung quanh, và từ đó tăng cường sức đề kháng cho trẻ. Những yếu tố thiên nhiên có thể sử dụng kết hợp với bài tập thể dục để tăng hiệu quả của chúng, nhưng cũng có thể làm phương tiện GDTC độc lập. Nước làm sạch da, tác động cơ học lên cơ thể con người. Không khí trong lành giúp tiêu diệt vi khuẩn, bổ sung nhiều oxy cho máu, ảnh hưởng tốt đến cơ thể. ánh sáng mặt trời có khả năng tạo ra sinh tố D dưới da, tiêu diệt nhiều loại vi khuẩn có hại và tăng cường sức đề kháng của cơ thể đối với bệnh tật. c) Bài tập vận động: 58
  5. Đây là phương tiện đặc biệt và cơ bản trong GDTC có tác động nhiều mặt đến cơ thể con người. Nó được sử dụng để thực hiện nhiệm vụ bảo vệ sức khoẻ, giáo dưỡng và giáo dục trong GDTC mầm non. Ngoài những phương tiện GDTC cơ bản nêu trên có thể kể thêm: thể dục nhịp điệu, các loại vận động khác nhau trong cuộc sống, matxa, những phản xạ không điều kiện 2.2. Bài tập vận động như là phương tiện giáo dục thể chất cơ bản trong GDTC mầm non 2.2.1. Nguồn gốc và bản chất của BT vận động BT vận động xuất hiện khi con người nhận ra tầm quan trọng phải chuẩn bị về mặt thể lực cho cuộc sống và hoạt động của mình. Bằng kinh nghiệm người cổ đại nhận thấy mối quan hệ giữa việc chuẩn bị trước cho cuộc đi săn với kết quả của nó, từ đó đánh giá được tầm quan trọng của việc chuyển giao những kinh nghiệm vận động cho thế hệ sau. Vì vậy trước mỗi cuộc đi săn họ đã tiến hành luyện tập với những tình huống giả định: cố gắng vồ lấy những con thú bằng hình vẽ hay vật tượng trưng. Trong quá trình luyện tập nhiều lần những hành động như thế ở họ hình thành kỹ năng đạt được mục đích, phát triển tầm nhìn, sức lực và những tố chất vận động khác. Tóm lại: những bài tập vận động được hình thành từ chính những cử động vận động trong cuộc sống lao động của con người. Sự phát triển tiếp theo của BT vận động có sự ảnh hưởng của chiến tranh, khoa học hay nghệ thuật. Cùng với sự phát triển của xã hội và khoa học GDTC sự giống nhau giữa hình thức lao động và BT vận động giảm đi. Điều đó cho phép phân chia những vận động phức tạp thành nhiều bài tập riêng rẽ và sử dụng chúng vào mục đích GDTC. Trong quá trình phát triển lý luận và thực tiễn GDTC người ta đã xây dựng những BT vận động dành cho những nhóm cơ riêng biệt (có sử dụng phương tiện và không sử dụng phương tiện ) cũng như những trò chơi thể thao (bóng đá, bóng 59
  6. chuyền ). Hiện nay có số lượng đông đảo những BT vận động và sự phát triển của chúng vẫn không ngừng tiếp diễn. 2.2.2. Nội dung và hình thức của BT vận động BT vận động khác nhau bởi nội dung và hình thức của chúng. Liên quan đến nội dung có những hành động trong các BT vận động và những quá trình (tâm lý, sinh lý, sinh hoá ) được hình thành trong cơ thể trẻ trong quá trình luyện tập. Việc thực hiện những BT vận động có liên quan đến biểu tượng về vận động, sự chú ý, tư duy, ý chí, tình cảm và những quá trình tâm lý khác. Khi thực hiện những BT vận động khác nhau diễn ra sự thay đổi trong hoạt động của hệ tim mạch, hệ hô hấp và các hệ thống khác. Sự chuyển dịch trong mức độ tương ứng làm thay đổi của các chức năng trong cơ thể dẫn đến sự tăng trọng lượng và phát triển cấu trúc của các bộ phận cơ thể. Điều quan trọng khi xem xét nội dung của các BT vận động theo quan điểm sư phạm là cần xác định ý nghĩa của chúng đối với việc thực hiện nhiệm vụ giáo dưỡng và giáo dục. Hình thức của bài tập vận động đó là cấu trúc bên trong và bên ngoài của nó. Cấu trúc bên trong đó là mối quan hệ qua lại của các quá trình khác nhau trong cơ quan của cơ thể trong thời gian thực hiện bài tập vận động. Cấu trúc bên ngoài là hình thức quan sát được, được xác định bởi chính mối quan hệ qua lại của các thông số vận động như không gian, thời gian, động lực. Nội dung và hình thức của BT vận động có quan hệ với nhau. Nội dung đóng vai trò chủ đạo trong mối quan hệ với hình thức (ví dụ: cùng với sự tăng vận tốc chạy thì thay đổi độ dài của bước chân và góc co duỗi của đầu gối). Nhưng hình thức lại ảnh hưởng đến nội dung (ví dụ: việc đánh tay đúng khi ném xa thì ảnh hưởng tốt đến việc hình thành các tố chất thể lực- khoảng cách ném tăng lên, điều đó minh chứng cho việc giảm lực của cơ). 2.2.3. Kỹ thuật của BT vận động 60
  7. Đó là phương pháp thực hiện vận động nhờ đó giải quyết được những nhiệm vụ vận động, ví dụ: ném có thể thực hiện bằng nhiều phương pháp khác nhau. Trong kỹ thuật của BT vận động người ta chia ra nguyên lý kỹ thuật, những thành phần cơ bản và chi tiết kỹ thuật: - Nguyên lý kỹ thuật là thành tố cơ bản, không thể thiếu được khi thực hiện nhiệm vụ vận động của bài tập. Khi thiếu vắng một thành phần nào đó của nguyên lý kỹ thuật thì bài tập không thể thực hiện được hoặc là bị huỷ bỏ (bt sai). - Những thành phần cơ bản cuả kỹ thật đó là những phần tương đối quan trọng quyết định của cơ sở kỹ thuật của một vận động nào đó, ví dụ:đối với nhảy cao có bước chạy đà thì thành phần cơ bản của kỹ thuật sẽ là kỹ thuật dậm nhảy kết hợp với chân đánh lăng cao và nhanh (bay qua dây). Việc thực hiện những thành phần này trong bài tập thường diễn ra trong thời gian ngắn và đòi hỏi sự cố gắng rất lớn của cơ. - Những chi tiết kỹ thuật: Đó là những đặc điểm thứ yếu của bài tập mà có thể thay đối không ảnh hưởng gì đến nguyên lý kỹ thuật.Ví dụ: Sau khi ném bóng để đảm bảo thăng bằng thì một số trẻ tiến hành thay đổi chân, một số khác bước chân về phía trước. Chi tiết kỹ thuật phụ thuộc vào đặc điểm thể hình cá nhân và đặc điểm chức năng của trẻ, vào điều kiện khi thực hiện bài tập thể chất. 2.3. Phân loại các bài tập vận động 2.3.1. Bài tập thể dục Đặc điểm đặc trưng của các BT thể dục là sự tác động có chọn lọc lên các bộ phận cơ thể, lên các nhóm cơ bắp, khớp, dây chằng, và lên những hoạt động khác của cơ thể (các hệ cơ quan), trạng thái của chúng (co, giãn cơ bắp), khả năng xác định trương lực, sự đa dạng của các bài tập, sử dụng dụng cụ, tập theo nhạc, hội thao thể dục. Những đặc điểm trên của BT thể dục cho phép sử dụng chúng để luyện tập cho tất cả các lứa tuổi với sự chuẩn bị thể lực và tình trạng sức khoẻ khác nhau. 61
  8. 2.3.2. Trò chơi vận động Các TCVĐ được phân biệt với các BT thể dục bởi đặc điểm tổ chức hoạt động chung. Trong TCVĐ hoạt động của trẻ được tổ chức dựa trên cơ sở nội dung hoặc nhiệm vụ của trò chơi đã được dự tính trước, trên cơ sở kết hợp các thao tác vận động và mang đặc điểm tổng hợp. 2.3.3. Bài tập thể thao Đó là hệ thống các BT vận động nhằm mục đích đạt thành tích cao khi tham gia vào cuộc thi. Thể thao đòi hỏi cao về thể lực và sức mạnh tinh thần của người luyện tập, do đó các bài tập thể thao chỉ được phép tiến hành với các độ tuổi nhất định và trong những điều kiện phù hợp với sự phát triển và chuẩn bị thể lực. Với trẻ em lứa tuổi mầm non người ta áp dụng những bài tập mang tính thể thao đơn giản như: đi xe đạp 4 bánh, tập bơi 2.3.4. Bài tập trong Du lịch thể thao Các bài tập trong lĩnh vực này đều nhằm mục đích củng cố kỹ năng vận động và phát triển tố chất vận động trong điều kiện tự nhiên. Hình thức: tổ chức cho trẻ nhỏ dạo chơi kết hợp với việc luyện tập các bài tập thể dục và TCVĐ. 62
  9. Chương V: HƯỚNG DẪN THỰC HIỆN MỘT SỐ NỘI DUNG VÀ HÌNH THỨC GIÁO DỤC THỂ CHẤT MẦM NON 1. Hướng dẫn thể dục sáng 1.1. Yêu cầu chuẩn bị. - Địa điểm: + Tập ngoài trời nếu thời tiết tốt, nếu không tập trong nhà. + Sân bãi sạch sẽ, bằng phẳng. + Lớp học sáng sủa thoáng mát - Đồ dùng, + âm nhạc + Cờ, nơ, gậy, cành lá đủ cho cô và tất cả trẻ + Quần áo cô và trẻ rộng rãi, thuận tiện 1.2. Cấu trúc của thể dục sáng và gợi ý cách hướng dẫn - Phần khởi động: Cho trẻ đi thành vòng tròn kết hợp với các kiểu đi (đi thường, đi bằng gót chân, đi bằng mũi bàn chân), chạy với các tốc độ khác nhau, sau đó cho trẻ đứng thành vòng tròn hay hàng ngang theo tổ, dãn cách đều để tiện cho việc tập các động tác. Nếu tập với cờ, nơ thì để làm nhiều nơi cho trẻ dễ lấy. - Phần trọng động: Tập các động tác theo một trật tự nhất định: hô hấp, tay- vai, bụng- lườn, chân- bật. + Đối với trẻ mẫu giáo bé: * Các động tác mô phỏng: cô cùng làm với trẻ 3- 4 lần. * Các động tác tập theo nhịp hô (nhịp 2): tập 3-4 lần x 2 nhịp. * Tư thế đứng tập các động tác: đứng tự nhiên hoặc hai chân song song để tránh biến dạng bàn chân. * Thời gian: 6-7 phút + Đối với trẻ mẫu giáo nhỡ: 63
  10. * Các động tác hô hấp: gà gáy, thổi nơ, thổi bóng bay tập từ 4- 6 lần x 2 nhịp. * Các động tác tập theo nhịp hô: 3- 4 lần 4 nhịp. Cô có thể tập cùng trẻ 1-2 lần rồi hô cho trẻ tập. + Đối với trẻ mẫu giáo nhỡ: Cô gọi tên bài tập, tập cùng với trẻ 1-2 lần rồi hô cho trẻ tập. * Động tác hô hấp tập 4-6 lần x 2 nhịp * Các động tác khác tập theo nhịp hô 2 lần x 8 nhịp - Phần hồi tĩnh: đi bộ với nhịp chậm dần và dậm chân tại chỗ, có thể chơi 1 TCVĐ nhẹ nhàng - Thời gian: Mẫu giáo bé: 6-7 phút. Mẫu giáo nhỡ và lớn: 7-8 phút 2. Hướng dẫn trò chơi vận động 2.1. Đối với trẻ mẫu giáo bé: Gợi ý cách hướng dẫn: Đặc điểm của trẻ mẫu giáo bé là sự hiểu biết về thế giới xung quanh còn ít, chú ý chưa bền vững, các kỹ năng vận động chưa hoàn thiện và khó phối hợp được hành động của mình với hàng động của bạn, vì thế mặc dù trẻ rất thích chơi các trò chơi vận động, nhưng trẻ không tự tổ chức được kể cả những trò chơi đã quen thuộc. Vì vậy, giáo viên phải là người tổ chức trò chơi vận động cho trẻ kể cả khi trẻ tự đưa ra trò chơi. Khi hướng dẫn giáo viên phải đảm bảo các mặt sau: a) Hướng dẫn trò chơi mới: + Giới thiệu trò chơi: Đối với mẫu giáo bé, khi giới thiệu trò chơi thì phải biểu lộ tình cảm và thể hiện tính cách nhân vật bằng điệu ngữ. Ví dụ: Nói về chim, thỏ thì giọng nói phải nhẹ nhàng. Nói về sói, cáo thì giọng thô hơn, to hơn 64
  11. Khi giới thiệu trò chơi có chủ đề, nên dùng những câu chuyện ngắn có hình tượng để gợi cho trẻ những hình tượng nhân vật mà trẻ sẽ bắt chước trong khi chơi. Cách giới thiệu như vậy sẽ giúp trẻ dễ tưởng tượng ra cách chơi, nhập vai và thể hiện vận động đặc trưng của các nhân vật này được diễn cảm ơn. Khi giới thiệu giáo viên nên sử dụng một số lượng từ lớn, nhiều loại ngữ điệu, giọng nói. Điều đó có tác dụng làm giàu ngôn ngữ cho trẻ, nhưng trẻ bé, thậm chí cả những trẻ không tích cực tham gia trò chơi cũng chú ý tới lời của cô. Ví dụ: Khi chơi trò chơi "nhảy qua suối nhỏ", giáo viên động viên trẻ: "nào, cháu hãy nhảy qua suối thật cẩn thận kẻo bị ướt chân. Đừng sợ, suối không sâu đâu " Nếu trẻ sợ, giáo viên cùng thực hiện với trẻ, sự giao tiếp thường xuyên bằng ngôn ngữ sẽ tạo cho trẻ sự phấn khởi, thích thú, đồng thời có tác dụng phát triển ngôn ngữ và trí tưởng tượng cho trẻ. + Giải thích hành động chơi: Đối với mẫu giáo bé, hành động chơi thường được thể hiện ngay trong khi giải thích trò chơi. Ví dụ: Giáo viên nói: "Bây giờ cô cháu mình cùng chơi trò chơi thỏ đổi chuồng", thì ngay lúc ấy giáo viên chọn một số trẻ nắm lấy tay nhau làm chuồng thỏ. Sau đó tiếp tục giải thích: Khi các cháu nghe cô nói: "trời nắng", thì các con sẽ ra ngoài đồng cỏ kiếm ăn. Đồng thời giáo viên làm mẫu động tác đi của thỏ: giơ hai tay lên đầu vẫy vẫy làm tai thỏ, hai chân nhảy chụm tiến về phía trước. Một lát sau cô nói: "trời mưa", hoặc "trời tối", thì tất cả các con thỏ mỗi con tìm cho mình một cái chuồng. Với những trò chơi có lời, giáo viên đọc lời cho trẻ thực hiện theo lời. + Phân vai chơi: Trẻ ở lớp này thường không nhớ vai chơi của mình, có khi đang là "sói" đuổi thỏ, thì lại chạy trốn luôn cùng với "thỏ", vì thế giáo viên phải tham gia vào vai chính, có như vậy mới đem lại cho trẻ sự phấn khởi và tạo điều kiện thu hút tất cả trẻ tham gia vào trò chơi và giúp trẻ tích cực hoạt động. Đến giữa năm học, khi trẻ 65
  12. đã có kinh nghiệm vận động, thì cô có thể chọn một số cháu nhanh nhẹn, tháo vát thực hiện tốt vận động tham gia vào vai chính. b) Tổ chức ôn luyện trò chơi đã biết: Trẻ 3 tuổi thường khó tiếp thu những điều tinh tế của trò chơi, khó hình thành những kỹ năng cần thiết, vì thế giáo viên có thể cho trẻ chơi lại nhiều lần mà không sợ trẻ chán. Sau mỗi lần học trò chơi mới, cô cho trẻ chơi lại 1-2 lần trò chơi đã biết, sau đó chơi lại trò chơi đã học. Dù là trò chơi quen thuộc với trẻ, nhưng khi hướng dẫn, giáo viên vẫn phải nhắc lại luật của trò chơi, đồng thời để tăng thêm hứng thú và tính tự lập của trẻ, giáo viên có thể phức tạp hoá trò chơi bằng nhiều cách, hoặc là thay đổi quy tắc chơi, nâng cao yêu cầu, đưa thêm vận động chính xác hơn, thay đổi đội hình. Ví dụ: Trong trò chơi: "Ngày và đêm" có thể thay đổi các tình huống. Đầu tiên cô đưa ra tín hiệu "Trời sáng", trẻ là gà gáy, sau đó các con gà con đi kiếm mồi kêu "Chiếp, chiếp". Khi nghe tín hiệu "Trời tối" các con gà chạy nhanh vào chuồng (ghế) của mình và giả nhắm mắt ngủ. Khi nào có hiệu lệnh "Trời sáng", thì dậy đi kiếm mồi Sự thay đổi, bổ sung một vài chi tiết không làm thay đổi nội dung và luật chơi của trò chơi, mà yếu tố mới lại nâng cao sự thích thú ở trẻ, khích thích chúng hoạt động tích cực hơn, tự lực và sáng tạo hơn Theo dõi quá trình chơi: Trong quá trình tổ chức hướng dẫn trò chơi, giáo viên cần chú ý theo dõi: + Trẻ hành động chơi như thế nào ? Có đảm bảo được nội dung của trò chơi hay không và tìm nguyên nhân. Nếu vì sự điều khiển của giáo viên không phù hợp, thì phải điều chỉnh bằng cách phát hiệu lệnh chậm hơn. + Theo dõi mối quan hệ, cách đối xử giữa trẻ với nhau: Tạo điều kiện và gợi ý cho trẻ có những biểu hiện tốt với nhau: Nhường nhau đồ chơi, không chen lấn bạn 66