Giáo trình Phương pháp giáo dục thể chất cho trẻ (Phần 1) - Nguyễn Thị Mỹ Trinh

Giáo trình "Phương pháp giáo dục thể chất cho trẻ mầm non" nhằm trang bị cho sinh viên những vấn đề lý luận mang tính hệ thống và khái quát về mục đích, nhiệm vụ, các nguyên tắc giáo dục thể chất mầm non, đồng thời giới thiệu các
phương pháp, phương tiện và hình thức giáo dục thể chất cho trẻ mầm non qua các độ tuổi: nhà trẻ, mẫu giáo.
pdf 44 trang Khánh Bằng 29/12/2023 2540
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Giáo trình Phương pháp giáo dục thể chất cho trẻ (Phần 1) - Nguyễn Thị Mỹ Trinh", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfgiao_trinh_phuong_phap_giao_duc_the_chat_cho_tre_phan_1_nguy.pdf

Nội dung text: Giáo trình Phương pháp giáo dục thể chất cho trẻ (Phần 1) - Nguyễn Thị Mỹ Trinh

  1. a) Thực hiện các bài tập thể chất phù hợp với lứa tuổi nhằm giáo dục ở trẻ những tố chất vận động như: nhanh nhẹn, khéo léo, bền bỉ, dẻo dai Ví dụ: - Với mục đích phát triển sức mạnh, nhanh nhẹn, khéo léo thì phải tăng độ dài, độ cao của bước nhảy, tập ném xa. - Để phát triển sức bền: cho trẻ tập nhiều động tác chạy với cự ly dài nhưng không gây ra sự mệt mỏi quá sức. - Phát triển khả năng ước lượng cự ly băng mắt: dạy trẻ ném trúng đích, sự chính xác khi chân nhảy chạm đất, quan sát hướng tốt trong lúc đi. Nếu các tố chất thể lực không được phát triển thì trẻ không thể thực hiện được thậm chí các chi tiết nhỏ của các động tác, không hoàn thiện được các hình thức khác nhau của vận động. b) Hình thành những kỹ năng, kỹ xảo vận động, những thói quen đúng về tư thế, các thói quen vệ sinh, nắm được một số kiến thức sơ đẳng về GDTC - Hình thành kỹ năng, kỹ xảo vận động và thông qua đó trẻ nhận thức thế giới xung quanh, thực hiện các nhiệm vụ được giao một cách sáng tạo, cho phép trẻ tiết kiệm được nhiều sức hơn khi vận động, hoạt động. Nhờ vậy, tạo ra khả năng lặp lại các động tác với số lần nhiều hơn và ảnh hưởng tích cực hơn tới hệ tim mạch, hô hấp và việc phát triển các tố chất thể lực. Việc sử dụng những thói quen vận động đã được hình thành một cách bền vững cho phép thực hiện những nhiệm vụ xuất hiện trong những tình huống bất ngờ, trong hoạt động, vận động và trò chơi. Những thói quen vận động được hình thành trước 6 tuổi là cơ sở cho việc hoàn thiện tiếp tục khi bước sang tuổi học sinh và cho phép tiếp tục đạt thành tích cao trong các môn thể thao. - Rèn luyện thói quen tư thế đúng đắn- có nghĩa là trẻ biết giữ tư thế đúng đắn của cơ thể trong lúc ngồi, đi, đứng- một việc hết sức quan trọng đối với trẻ 11
  2. mầm non. Giáo dục tư thế đúng đắn có ý nghĩa to lớn đối với sự hoạt động bình thường của tất cả các cơ quan, hệ thống của cơ thể. - Trong lứa tuổi mầm non phát triển những thói quen ban đầu về vệ sinh cá nhân cũng như vệ sinh công cộng: rửa tay, lau sạch mũi, đại tiểu tiện trước khi bước vào tập luyện, giữ quần áo sạch sẽ, giữ dày cẩn thận, giữ gìn các đồ chơi luôn luôn sạch sẽ, giữ gìn các dụng cụ thể dục thể thao, nhà cửa Các thói quen này được hình thành hay không phần nhiều phụ thuộc vào sức khoẻ của trẻ. - Đối với trẻ mẫu giáo cần phải truyền đạt một số hiểu biết có liên quan GDTC. Những kiến thức đã nhận được làm cho trẻ tập luyện một cách tự giác hơn và việc sử dụng các phương tiện GDTC ở các trường mầm non và ở gia đình được đầy đủ hơn. Làm cho trẻ hiểu được tác dụng của tập luyện. Về ý nghĩa của các động tác và các phương tiện khác của GDTC (các điều kiện vệ sinh, các yếu tố thiên nhiên, lao động chân tay) có được khái niệm tư thế đúng đắn, kỹ thuật động tác về luật lệ, trò chơi vận động cũng như sự hiểu biết về vệ sinh các nhân cũng như vệ sinh hoàn cảnh là rất quan trọng. Trẻ cần phải hiểu biết tên gọi của các bộ phận cơ thể, hướng của động tác (lên cao, hạ xuống, trước sau phải trái ) tên gọi và ý nghĩa của các dụng cụ thể dục thể thao, nguyên tắc đảm bảo và sử dụng các dụng cụ đó, điều lệ sử dụng quần áo, dày thể thao. Tất cả các hiểu biết nói trên cần phải phù hợp với lứa tuổi của trẻ. 2.3. Nhiệm vụ giáo dục a) Giáo dục lòng yêu thích thể dục thể thao, sự hứng thú, tự giác, độc lập luyện tập thường xuyên. b) Thực hiện việc giáo dục đạo đức, trí tuệ, thẩm mỹ và lao động: Việc thực hiện các động tác, bài tập vận động sẽ tạo điều kiện thuận lợi nhất để giáo dục những đức tính tốt và các phẩm chất đạo đức (thật thà, công bằng, tinh thần tập thể, và cũng như việc hình thành các phẩm chất ý chí (lòng dũng cảm, kiên định, sự kiền chế ) 12
  3. Cần phải giáo dục cho trẻ sử dụng một cách sáng tạo những sự hiểu biết, những thói đã hình thành trong hoạt động vận động, xuất hiện tính tích cực, tự giác nhanh trí Đối với trẻ mẫu giáo thì việc giáo dục cảm xúc tốt, sự sảng khoái, tinh thần vui vẻ, cũng như biết vượt qua những trạng thái tâm lý tiêu cực là điều hết sức quan trọng. Điều đó rất cần thiết bởi vì những cảm xúc tốt sẽ ảnh hưởng một cách thuận lợi đến sự làm việc của tất cả các cơ quan, các hệ thống của cơ thể, đảm bảo hình thành một cách nhanh chóng các thói quen vận động. GDTC tạo ra sự thuận lợi cho việc giáo dục thẩm mỹ. Trong quá trình thực hiện động tác vận động khuyến khích sự phát triển khả năng tiếp thu cảm thụ hiểu biết và đánh giá cái đẹp một cách đúng đắn: cái đẹp của trang phục thể dục, của các dụng cụ tập luyện, của môi trường xung quanh, giáo dục trẻ thấy cái đẹp trong tư thế tác phong, trong phẩm chất đạo đức không nhân nhượng những hành động và lời nói thô lỗ. Trong quá trình GDTC có tiến hành giáo dục lao động. Chuẩn bị cho trẻ bước vào lao động có nghĩa là phát triển ở trẻ khả năng nhanh nhẹn bằng những thói quen vận động và giáo dục các tố chất thể lực cần thiết cho lao động. Ngoài ra trẻ phải nắm vững các thói quen vận động có liên quan tới các trang bị trong phòng tập, sân tập, (hố có cát để nhảy, dụng cụ tập luyện ) cùng với sự sửa chữa phương tiện thể dục thể thao, bảo vệ quần áo, dày dép thể thao, chuẩn bị địa điểm để tập luyện (quét sạch lá rụng, xới hố cát, đường chạy ), khoảng cách đặt các dụng cụ trên sân. Ngoài ra trẻ còn tiếp thu những thói quen vận động để trông nom, bảo quản dụng cụ luyện tập: Lau sạch bụi ở gióng thang, thu dọn cờ, nơ, gậy, vòng, ghế thể dục, bảng 13
  4. Các nhiệm vụ nêu trên có liên quan mật thiết, chặt chẽ với nhau. Cần tổ chức quá trình GDTC cho trẻ mầm non sao cho trong cùng một lúc giải quyết có hiệu quả tất cả những nhiệm vụ đó. 3. Các nguyên tắc giáo dục thể chất cho trẻ mầm non 3.1. Nguyên tắc toàn diện và hệ thống Là nguyên tắc quan trọng trong GDTC. K.Đ.Usinxki (1949) đã viết "Chỉ có hệ thống mới giúp chúng ta hoàn toàn làm chủ được những kiến thức của chúng ta. Một bộ óc chứa đầy những kiến thức rời rạc, không liên quan đến nhau, cũng giống như một kho chứa đồ cũ, trong đó mọi thứ đều rất lộn xộn và ở đó chính bản thân chủ nhân cũng chẳng tìm thấy cái gì". Tính hệ thống được thể hiện trong sự liên tục, tuần tự và có tính kế hoạch của nội dung GDTC trong suốt lứa tuổi mầm non, trong sự tuần tự của các tiết học thể dục (hay vận động) với sự thay đổi liên hoàn giữa luyện tập và nghỉ ngơi, trong sự kế thừa, trong mối quan hệ qua lại của nội dung và tính tuần tự của các tiết học. Tính hệ thống còn thể hiện trong mối quan hệ và phụ thuộc lẫn nhau của tri thức, kỹ năng, kỹ xảo: sự hình thành kỹ năng này cho phép đứa trẻ có cơ sở để lĩnh hội cái mới hơn và cứ như thế, đi từ cái mới này đến cái mới khác. Tính hệ thống thể hiện trong việc thực hiện một cách có hệ thống những bài tập thể chất trong ngày qua các hình thức GDTC khác nhau: thể dục sáng, tiết học thể dục, hoạt động vận động ngoài trời cũng như việc dạy trẻ thực hiện chế độ giáo dục sức khoẻ trong ngày một cách thường xuyên. Khi ngừng thực hiện những tiết thể dục đã xây dựng theo hệ thống, hoặc thực hiện chúng không liên tục, nhận thấy sự giảm sút rõ rệt thành tích của các cơ quan chức năng, và đôi khi dẫn đến sự thoái lùi các chỉ số hình thái thể hiện ở sự giảm sút tỷ trọng (trọng lượng riêng) của các mô cơ tích cực, sự thay đổi thành phần cấu tạo của chúng và nhiều biểu hiện tiêu cực khác. 14
  5. GDTC đòi hỏi sự lặp lại những kỹ xảo vận động đã được hình thành. Chỉ trong điều kiện lặp lại nhiều lần mới hình thành được định hình động lực trong não bộ. Để tiến hành lặp lại một cách hiệu quả cần một hệ thống mà trong đó những cái cũ đã hình thành liên kết với những cái mới (khi quá trình lặp lại có tính chất tình huống: thay đổi bài tập, điều kiện thực hiện, sự khác nhau của những phương pháp và biện pháp, hình thức và nội dung tiết học một cách tổng thể). Bên cạnh đó, sự lặp lại cần đảm bảo sự cải tổ trật tự hình thái và chức năng trong quãng thời gian dài, trên cơ sở đó phát triển các tố chất thể lực (A. N. Crextovnhicop). Cơ thể con người là một khối thống nhất, đặc biệt cơ là cơ thể trẻ non nớt, đang thời kì lớn lên và hoàn thiện nếu không được phát triển toàn diện, cân đối thì qua giai đoạn này khó phát triển bình thường.Ví dụ: nếu trẻ bị suy dinh dưỡng nặng, thì cơ thể không cân đối, còi cọc, trí óc không phát triển. Trong thể dục, mỗi bài tập chỉ có tác dụng nhất định đến sự phát triển của một số bộ phận cơ thể hoặc một số tố chất thể lực. Ví dụ: Động tác tay, vận động cơ bản ném xa có tác dụng phát triển cơ tay, phát triển cảm giác thăng bằng, rèn luyện tính chất khéo léo, mạnh mẽ. Động tác chân- bật: phát triển cơ chân, rèn luyện khả năng phối hợp tay, chân, tố chất mạnh mẽ Vì vậy, cần lựa chọn những bài tập nhịp nhàng, cân đối giữa tay và chân, giữa cơ quan vận động và cơ quan nội tạng, giữa các tố chất thể lực để giúp cho các cơ quan, các hệ thống trong cơ thể trẻ phát triển bình thường hoặc phát triển cục bộ một bộ phận nào đó. Tính hệ thống và liên tục phải được thực hiện trong kế hoạch giảng dạy toàn năm, từng học kỳ, từng tháng, từng bài tập, từng động tác sao cho toàn bộ nội dung khối lượng luyện tập thống nhất thành một khối có tác động thúc đẩy lẫn nhau, động tác này bổ sung cho động tác kia, bài học trước làm cơ sở cho bài học sau, bài sau bổ sung, củng cố và phát triển bài học trước. Ví dụ: dạy bò bằng bàn tay và cẳng chân, động tác tay, động tác chân hỗ trợ cho vận động bò. Bò theo hướng 15
  6. thẳng làm cơ sở để dạy bò dích dắc, bò chui qua cổng. Qua đó rèn luyện, củng cố kỹ năng bò cho trẻ. Vận dụng nguyên tắc này cần chú ý: + Khi chọn nội dung và hình thức tập luyện cần phải cân nhắc kĩ tác dụng và ảnh hưởng qua lại của chúng đến các bộ phận của cơ thể Ví dụ: hướng dẫn bài tập GDTC phải có đầy đủ các động tác theo thứ tự: tay, chân, bụng, lườn, bật, phải có động tác hỗ trợ cho vận động cơ bản. Hoặc sau khi trẻ thực hiện động tác bật, không nên tổ chức cho trẻ chạy nhanh hoặc chạy chậm ngay, vì như thế trẻ sẻ bị mỏi chân. + Luyện tập toàn diện phải gắn liền với luyện tập có hệ thống thường xuyên liên tục. + Nội dung vận động phải được sắp xếp từ dễ đến khó, từ nhẹ đến nặng, từ đơn giản đến phức tạp. + Sắp xếp nội dung hợp lý. + Nâng dần cường độ vận động: Ví dụ: Nếu tiết bài mới yêu cầu trẻ phải thực hiện tối đa là 2 lần, thì ở tiết ôn luyện yêu cầu trẻ phải thực hiện từ 2,5 đến 3 lần. Từ 1 vận động cơ bản trong tiết học, sau đó tăng lên từ 2-3 vận động cơ bản. 3.2. Nguyên tắc tích cực và tự giác Nguyên tắc này dựa trên cơ sở quan hệ tự giác và tích cực của trẻ đối với hoạt động mà mình tiến hành: để đạt được thành tích khi thực hiện nhiệm vụ này hay nhiệm vụ khác thì trước hết trẻ phải hình dung rõ ràng: cần thực hiện cái gì và như thế nào, tại sao phải thực hiện như thế mà không phải khác (P.Ph.Lexgap là người đề ra nguyên tắc này). Nguyên tắc này được tiến hành theo các hướng cơ bản sau đây: - Hình thành hứng thú với nhiệm vụ vận động được giao 16
  7. - Kích thích sự quan sát vận động mẫu một cách có ý thức ở trẻ, sự phân tích có ý thức các bài tập vận động, hiểu được mục đích và phương pháp thực hiện nhiệm vụ. - Khuyến khích sự thể hiện tính tích cực, độc lập, sáng tạo ở trẻ khi thực hiện nhiệm vụ vận động: độc lập thay đổi bài tập, tạo ra những tình huống khác nhau, suy nghĩ về cái mới Dạy thể dục cho trẻ là làm cho trẻ nắm được tri thức, kỹ năng, kỹ xảo vận động. Đây là quá trình hoạt động nhận thức và thực hành cho trẻ. ý thức tự giác tích cực ở trẻ trong luyện tập có giá trị to lớn đối với kết quả bài tập. Muốn thực hiện tốt nguyên tắc tích cực, tự giác giáo viên cần phải: - Làm cho trẻ hiểu được nhiệm vụ bài tập một cách đơn giản và cụ thể. Trẻ càng bé thì nhiệm vụ được giao càng đơn giản. Ví dụ: con sẽ tung bóng bằng hai tay cho bạn, bạn sẽ bắt bóng và tung lại cho bạn khác. - Nội dung giảng dạy phải được lựa chọn vừa sức. - Phải làm cho các bài tập sinh động. Ví dụ: Phải tăng thêm đồ dùng dạy học. Khi bò chui qua cổng thì ở cổng có treo chuông để giúp trẻ tự đánh giá việc thực hiện hoạt động của mình đúng hay sai. - Giáo viên phải làm mẫu chính xác, đẹp, chậm vừa để trẻ dễ nhìn. - Giảng giải phải đầy đủ nhưng ngắn gọn dễ hiểu, sinh động có tác dụng gây hứng thú cho trẻ. - Chú ý động viên trẻ kịp thời. 3.3. Nguyên tắc trực quan kết hợp với lời nói và thực hành Dạy vận động là một quá trình nhận thức. Trong quá trình dạy vận động các thành tố của nhận thức có quan hệ khăng khít với nhau. Tuỳ theo nhiệm vụ đặt ra mà tuần tự của chúng có thể khác nhau: dạy trẻ có thể bắt đầu từ làm mẫu động tác kết hợp với giảng giải, giáo viên mô tả bằng lời và dùng cử động, vận động của mình để minh hoạ. Trong trường hợp này hay khác việc quan sát hình ảnh trực 17
  8. quan không loại trừ hoạt động tư duy, còn giải thích không loại trừ sự mô phỏng bằng những cử động, vận động.Tóm lại: trực quan, dùng lời và thực hành là những thành tố không tách rời nhau. Trực quan trong GDTC được hiểu là sự ảnh hưởng qua lại giữa các cơ quan phân tích cảm giác bên trong và bên ngoài cơ thể con người (trẻ). Bất kỳ nhận thức trực quan nào của con người cũng bắt đầu từ quan sát, nhìn ngó. Nhận thức cảm tính kết hợp với phân tích dần dần sẽ nâng sự hiểu biết từ cảm tính lên lý tính. Nhận thức trong GDTC cũng nằm trong quy luật đó. Trong giảng dạy thể dục, thói quen vận động chỉ có thể được hình thành trên cơ sở cảm giác trực tiếp với động tác, cho nên vấn đề trực quan trong giảng dạy thể dục có ý nghĩa cả với người dạy và người học. Tồn tại trực quan trực tiếp và trực quan gián tiếp trong GDTC mầm non. Giáo viên muốn làm cho trẻ nắm được tri thức, kỹ năng, kỹ xảo vận động một cách nhanh chóng, thì trong khi dạy cần tác động vào các loại cảm giác ở trẻ như thính giác, thị giác, xúc giác. Ví dụ: khi dạy một động tác trước hết giáo viên phải làm mẫu cho trẻ thấy, sau đó giáo viên chỉ dẫn cách làm, giải thích chỗ đúng, chỗ sai. Khi trẻ thực hành giáo viên quan sát, sửa sai trực tiếp cho trẻ (trực quan trực tiếp). Đối với những động tác, vận động khó mà việc làm mẫu không cho phép kéo dài thời gian để trẻ quan sát được kỹ (ví dụ: nhảy bật từ trên cao xuống), thì giáo viên có thể dùng hình vẽ mô tả để chỉ cho trẻ biết quá trình diễn biến của động tác, của vận động. ở mức độ cao hơn có thể dùng phim đèn chiếu, chiếu chậm cho trẻ xem để trẻ có hình dung chính xác về vận động, động tác (trực qua gián tiếp). Trong giảng dạy thể dục sử dụng trực quan và lời nói có ý nghĩa rất lớn nếu tính đến kinh nghiệm vận động và những hình thức vận động trong cuộc sống ở trẻ. Dần dần vai trò của lời nói cũng có ý nghĩa như quan sát (lưu ý khả năng tiếp thu 18
  9. và kinh nghiệm sống của trẻ). Khi sử dụng lời nói cần ngắn gọn, chính xác, rõ ràng, đúng lúc. 3.4. Nguyên tắc vừa sức và giáo dục cá biệt Nguyên tắc này đòi hỏi phải xem xét mối tương qua giữa khả năng của từng trẻ (năng lực thể chất cũng như tinh thần) và độ khó của nhiệm vụ vận động được giáo viên giao. Trong GDTC việc đảm bảo nguyên tắc này có ý nghĩa rất lớn vì: việc thực hiện các động tác vận động khác nhau có những tác động trực tiếp đến chức năng quan trọng của cơ thể.Thay đổi lượng vận động một cách đột ngột sẽ ảnh hưởng xấu cho sức khoẻ, cho nên cần phải xem lại các đặc điểm, khả năng của từng trẻ để đưa ra nhiệm vụ cho phù hợp. - Vừa sức (dễ tiếp thu): Mặc dù trong Chương trình giáo dục mầm non đã có những yêu cầu chung cho trẻ theo từng độ tuổi, nhưng trong quá trình giảng dạy vẫn phải cần có yêu cầu cụ thể đối với từng trẻ và chuẩn bị cho trẻ thực hiện yêu cầu ngày càng cao hơn. Khả năng của từng trẻ được xác định bằng các phương pháp sau đây: + Đánh giá thể lực của trẻ theo tiêu chuẩn (Ví dụ: Yêu cầu tối đa đối với trẻ lớp nhỡ cuối năm phải đạt: Bé trai nặng14,4 kg, cao 100,7 cm) và lập biểu đồ sức khoẻ cho từng trẻ. + Kiểm tra y học. Theo dõi sức khoẻ hàng ngày, tuần, tháng. Nếu thấy có vấn đề như trẻ sút cân, biếng ăn thì phải đưa trẻ đi khám ở bệnh viện. + Quan sát sư phạm trực tiếp: Cô giáo trực tiếp theo dõi, quan sát khả năng thực hiện bài tập, vận động của từng trẻ để đưa ra những bài tập phù hợp với khả năng cuả chúng. “Vừa sức" không có nghĩa là không có độ khó, mà là khả năng có thể vượt qua nếu biết động viên thể lực và tinh thần của trẻ. Để kiểm tra sự dễ tiếp thu được chính xác cần có sự kiểm tra y học và kiểm tra sư phạm một cách có hệ thống. Một 19
  10. trong những điều kiện cơ bản của tính vừa sức là sự liên tục và phức tạp dần của các động tác vận động. Vì vậy giáo viên phải biết sắp xếp nội dung các bài tập một cách hợp lý, buổi tập sau nặng hơn buổi tập trước. - Giáo dục cá biệt (tính đến đặc điểm cá nhân trẻ). Là sự cân nhắc những khả năng riêng biệt của từng trẻ trong quá trình giáo dục thể chất để lựa chọn các phương tiện, phương pháp và hình thức tổ chức tập luyện hợp lý. Trong GDTC cho trẻ mầm non tính đến đặc điểm cá nhân được giải quyết theo 2 hướng: cá biệt hoá theo xu hướng chung và con đường riêng. Cá biệt hoá theo xu hướng chung là chuẩn bị thể lực chung cho trẻ em các độ tuổi, lựa chọn những phương pháp, biện pháp giảng dạy, phương tiện và hình thức tổ chức hợp lý cho mỗi trẻ thực hiện bài tập vận động theo yêu cầu chung của chương trình hiện hành. Cá biệt hoá theo hướng chuyên biệt là: chuẩn bị thể lực một cách chuyên biệt cho những trẻ có năng khiếu (khả năng) về hoạt động thể dục thể thao (chủ yếu là áp dụng với trẻ ở cuối tuổi mẫu giáo). 3.5. Nguyên tắc phát triển (nâng cao dần yêu cầu). Những điều kiện cơ bản của nguyên tắc này bao gồm việc thực hiện những nhiệm vụ mới, những vận động khó hơn, thay đổi hình thức vận động và nâng dần khối lượng vận động. Sự phức tạp hoá các hoạt động vận động, sự thay đổi các hình thức vận động luôn đi kèm với sự tăng lên về lượng vận động. Ví dụ: Thay đổi nội dung vận động: Lúc đầu hướng dẫn trẻ bò bằng bàn tay và cẳng chân theo hướng thẳng, sau đó tổ chức cho trẻ bò dích dắc qua các chướng ngại vật. Thay đổi hình thức vận động: + Thi xem ai bò nhanh mà không chạm vật + Thi tổ nào bò nhanh mà không chạm chướng ngại vật. Nâng dần khối lượng vận động: 20
  11. +Tăng chiều dài quảng đường vận động (ở các lớp bé, nhỡ, lớn). +Tăng số lần thực hiện vận động trong tiết học. + Kéo dài thời gian thực hiện vận động. + Tăng tốc độ, nhịp độ luyện tập. + Tăng cường độ luyện tập trong từng tiết học: từ một vận động thành 2,3 vận động + Nâng cao yêu cầu về sự phối hợp vận động Để nâng cao khả năng của cơ thể, cần thiết phải nâng cao dần lượng vận động có hệ thống, tăng khối lượng và cường độ của chúng, khi cơ thể đã thích ứng với lượng vận động đó, thì năng lượng tiêu hao của cơ thể ít hơn, thông khí phổi, tần số co bóp của tim và huyết áp của tim cũng giảm xuống. Không khắc phục được sự khó khăn dần dần tăng lên do lượng vận động và các nhiệm vụ phức tạp dần lên thì việc giáo dục ý chí không thể thành công được. 3.6. Nguyên tắc phối hợp các hình thức giảng dạy. Phối hợp các hình thức giảng dạy sẽ tạo điều kiện tốt để thực hiện hiệu quả nhiệm vụ GDTC. Hình thức tập thể: Sử dụng khi dạy vận động mới, yêu cầu trẻ hiểu được nhiệm vụ, đồng thời đoàn kết thực hiện nhiệm vụ. Hình thức tổ chức nhóm: Hiểu được nhiệm vụ, tự giác, tự lực thức đẩy lẫn nhau cùng thực hiện nhiệm vụ. Thường được dùng khi cần củng cố kỹ năng vận động, khi dạo chơi, hoạt động ngoài trời, hoạt động buổi chiều. Hình thức cá nhân: Giáo viên hướng dẫn, giúp đỡ (có lựa chọn) những trẻ yếu và nâng cao yêu cầu đối với một số trẻ khác. 21
  12. Chương II: NỘI DUNG CỦA GIÁO DỤC THỂ CHẤT MẦM NON Trong Chương trình giáo dục mầm non nội dung GDTC bao gồm 2 lĩnh vực: - Giáo dục dinh dưỡng- sức khoẻ - Phát triển vận động 1. Nội dung giáo dục dinh dưỡng- sức khoẻ mầm non a) Đối với trẻ nhà trẻ: - Nội dung chung: + Làm quen với chế độ sinh hoạt và rèn luyện một số thói quen tốt trong ăn, uống, ngủ và vệ sinh cá nhân + Làm quen với một số công việc đơn giản tự phục vụ trong ăn, ngủ và vệ sinh cá nhân + Giữ gìn sức khoẻ và an toàn - Nội dung theo độ tuổi: Nội dung 18-24 tháng 24-36 tháng Làm quen với * Làm quen với chế độ sinh hoạt theo độ tuổi chế độ sinh hoạt * Làm quen với chế độ ăn cơm * Làm quen với chế độ ăn cơm với các nát với các loại thức ăn khác loại thức ăn khác nhau nhau *Làm quen với hành vi văn minh trong ăn uống * Tập thói quen ăn hết suất * Làm quen với chế độ ngủ 1 * Luyện thói quen ngủ 1 giấc trưa giấc * Làm quen với việc đi vệ sinh * Biết gọi cô khi có nhu cầu đi vệ sinh và đúng nơi quy định đi vệ sinh đúng nơi quy định 22