Giáo trình Pháp luật về hợp đồng (Phần 1) - Trường Đại học Vinh

Khái niệm:
- Khái niệm hợp đồng theo luật La Mã: Theo tiếng latinh là: contractus nghĩa là
ràng buộc. Các luật gia La Mã định nghĩa hợp đồng là căn cứ làm phát sinh, thay đổi
hoặc chấm dứt quan hệ pháp luật với hai dấu hiệu đặc trưng không thể thiếu: phải có sự
thỏa thuận và phải có mục đích (mục đích pháp lý nhất định). Mục đích pháp lý này có
thể là mong muốn tặng cho tiếp nhận một nghĩa vụ hoặc bảo đảm thực hiện nghĩa vụ
nói chung. Ảnh hưởng khái niệm hợp đồng trong luật La Mã lan rộng trong các bộ dân
luật Châu Âu, bắt đầu từ BLDS Pháp 1804, sau đó các nước khác: Ý, Nhật, Ai Cập,
Nga...
BLDS Pháp quy định: ”HĐ là sự thỏa thuận giữa hai hay nhiều bên về việc
chuyển giao một vật, làm hay không làm một công việc”
BLDS Nga 1994: ”HĐ là sự thỏa thuận giữa hai hay nhiều bên về việc xác lập
thay đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự”
BLDS Đức không định nghĩa về HĐ mà quy định theo hướng HĐ được hình
thành như thế nào ”người đưa ra đề nghị giao kết hợp đồng với người khác phải chịu
ràng buộc bởi đề nghị của mình, trừ trường hợp người đưa ra đề nghị thể hiện rõ ràng
rằng anh ta không bị ràng buộc bởi đề nghị đó.
- Ở Việt Nam quy định hợp đồng có sự thay đổi theo thời kỳ. Do bối cảnh kinh tế
- xã hội, pháp luật phong kiến không quy định khái niệm hợp đồng. Đến tân sau này,
những năm 90 có khái niệm hợp đồng kinh tế, hợp đồng dân sự. Đến BLDS 1995 có
quy định hợp đồng và khái niệm đó không thay đổi cho đến BLDS 2005.
- Khái niệm hợp đồng theo phương diện khách quan: là các quy phạm do Nhà
nước ban hành nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình dịch
chuyển các lợi ích vật chất giữa các chủ thể với nhau.
- Khái niệm hợp đồng theo phương diện chủ quan: hợp đồng dân sự là một giao
dịch dân sự mà trong đó các bên tự trao đổi ý chí với nhau nhằm đi đến sự thoả thuận
để cùng nhau làm phát sinh các quyền và nghĩa vụ dân sự nhất định.
BLDS 2005 chỉ rõ: ”hợp đồng dân sự là sự thoả thuận giữa các bên về việc chấm dứt,
thay đổi các quỳên và nghĩa vụ dân sự” (Đ388). Khái niệm hợp đồng dân sự ở đây được
hiểu theo nghĩa rộng bao gồm trong các lĩnh vực: dân sự theo nghĩa hẹp, hôn nhân và
gai đình, thương mại kinh doanh và lao động.
Có thể thấy hợp đồng chiếm vị trí quan trọng trong BLDS: Trong tổng số 777 điều có
trên dưới 250 điều quy định trực tiếp về hợp đồng 
pdf 25 trang hoanghoa 09/11/2022 8080
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Giáo trình Pháp luật về hợp đồng (Phần 1) - Trường Đại học Vinh", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfgiao_trinh_phap_luat_ve_hop_dong_truong_dai_hoc_vinh.pdf

Nội dung text: Giáo trình Pháp luật về hợp đồng (Phần 1) - Trường Đại học Vinh

  1. CHƯƠNG 2 CÁC ĐIỀU KIỆN CÓ HIỆU LỰC CỦA HỢP ĐỒNG 1. Các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng 1.1 Điều kiện về chủ thể Để bảo vệ trật tự xã hội, bảo vệ quyền lợi của các bên tham gia hợp đồng, pháp luật dân sự căn cứ vào khả năng nhận thức, địa vị pháp lý của các cá nhân cũng như tổ chức đặt ra điều kiện cho phép chủ thể tham gia với tư cách là các bên tham gia ký kết hợp đồng. Năng lực chủ thể là một thuộc tính đặc biệt của chủ thể pháp luật được Nhà nước quy định. Thông thường năng lực của chủ thể bao gồm NLPL và NLHV. NLPL là khả năng mà tổ chức, cá nhân được hưởng các quyền và nghĩa vụ pháp lý do Nhà nước trao cho. Các quyền và nghĩa vụ này được Nhà nước quy định trong các văn bản pháp luật hiện hành. NLPL của cá nhân có từ lúc sinh ra và chỉ mất đi khi cá nhân đó chết. Với chủ thể là tổ chức thì NLPL có từ khi thành lập và mất đi khi tổ chức đó bị giải thể hoặc phá sản. NLPL là quyền khách quan, song để quyền khách quan này biến thành quyền chủ quan thì đòi hỏi chủ thể tham gia giao kết hợp đồng phải có NLHV. NLHV là khả năng của cá nhân bằng hành vi của mình xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự. Khác với NLPL, ở cá nhân, NLHV chỉ xuất hiện khi đạt đến độ tuổi do pháp luật quy định và không bị mắc các khuyết tật về tinh thần. Còn đối với tổ chức thì NLHV xuất hiện cùng lúc với NLPL và bị chi phối bởi các giấy tờ làm bằng chứng liên quan tới việc thành lập tổ chức đó (ví dụ như: quyết định thành lập hoặc giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh). Như vậy, năng lực chủ thể được cấu thành bởi hai yếu tố là NLPL và NLHV. Hai yếu tố có mối quan hệ mật thiết với nhau và tạo nên năng lực chủ thể. Một người được coi là có năng lực chủ thể thì đồng thời phải có NLPL và NLHV. Về nguyên tắc, pháp luật chỉ cho phép các đương sự có đủ NLPL và NLHV mới có thể tự mình tham gia vào các quan hệ pháp luật. Nếu không đủ năng lực chủ thể, bắt buộc phải có người đại diện hoặc người giám hộ hợp pháp cho các bên tham gia giao kết hợp đồng. Trong quan hệ dân sự, các chủ thể có thể tự mình tham gia giao kết hợp đồng hoặc thông qua người đại diện. Trong trường hợp thông qua đại diện, nội dung giao kết hợp đồng không được vượt quá thẩm quyền, phạm vi người đại diện được phép quyết 11
  2. định. Đại diện thường phân chia ra làm hai nhóm: đại diện theo thẩm quyền và đại diện theo ủy quyền. - Đại diện theo thẩm quyền là đại diện được pháp luật quy định hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định. Đối với cá nhân, Tòa án hoặc cơ quan nhà nước cử hoặc đại diện đương nhiên theo quy định của pháp luật, như cha mẹ đương nhiên là người đại diện cho con trong trường hợp người con đó không đủ NLHV dân sự. - Đại diện theo ủy quyền là đại diện dược xác lập theo sự ủy quyền của người đại diện và người được đại diện. Nếu cá nhân hoặc tổ chức có đủ năng lực chủ thể để tham gia giao kết hợp đồng nhưng uỷ quyền cho người khác đại diện tư cách chủ thể thì cần xem xét phạm vi và nội dung uỷ quyền của người đại diện. Việc giao kết hợp đồng không được trái với thẩm quyền được uỷ quyền. Nếu không thoả mãn điều kiện này, hợp đồng cũng bị tuyên bố vô hiệu. 1.2. Điều kiện về mục đích và nội dung của hợp đồng Nội dung thỏa thuận chính là các điều khoản của hợp đồng đã được các bên thống nhất. Những điều khoản này phản ảnh các quyền và nghĩa vụ của các bên phát sinh trong hợp đồng. Trước đây theo các luật gia đại diện cho thuyết tự do lập ước cho rằng các bên tham gia giao dịch hợp đồng có quyền thỏa thuận bất cứ điều khoản nào mà họ muốn. Tuy nhiên, trong một xã hội dân chủ văn minh và công bằng, pháp luật không thừa nhận những điều khoản nào được thỏa thuận trái với pháp luật hay đạo đức xã hội. Điều cấm của pháp luật được hiểu là những quy định của pháp luật không cho phép chủ thể thực hiện những hành vi nhất định. Ví dụ như mục đích, nội dung mà các bên thoả thuận khi giao kết hợp đồng không được xâm phạm tới lợi ích chung của cộng đồng, của Nhà nước. Đạo đức xã hội được hiểu là những chuẩn mực ứng xử chung giữa người với người trong xã hội, được cộng đồng thừa nhận và tôn trọng. Nói cách khác các bên có quyền thỏa thuận những điều mà pháp luật không cấm và làm những việc mà pháp luật cho phép, không trái với quy tắc đạo đức. Như vậy, để hợp đồng phát sinh hiệu lực thì các bên phải thỏa thuận phù hợp với pháp luật và đạo đức xã hội. Theo đó tất cả những hợp đồng được ký kết mà có căn cứ chứng minh rằng thỏa thuận là trái pháp luật và không phù hợp với chuẩn mực xã hội thì hợp đồng đó sẽ vô hiệu. 1.3 Điều kiện về thể hiện ý chí trong thỏa thuận Sự tự nguyện trong thỏa thuận chính là nội dung của nguyên tắc “tự do ý chí” khi giao kết hợp đồng. Nguyên tắc này được thể hiện bằng sự đồng thuận của những người tham gia ký kết. Điều 4 BLDS 2005 quy định: “Trong quan hệ dân sự, các bên hoàn toàn tự nguyện, không bên nào được áp đặt, cấm đoán, cưỡng ép, đe doạ, ngăn cản bên nào”. Bên cạnh đó, pháp luật cũng dự liệu các trường hợp vi phạm tới nguyên tắc “tự do ý chí” trong giao kết hợp đồng. Chúng ta có thể gọi đó là các khiếm khuyết của sự thống nhất ý chí, đó là sự nhầm lẫn, sự lừa dối và đe dọa khi giao kết hợp đồng. 12
  3. Sự nhầm lẫn: Sự nhầm lẫn được hiểu là “sự đánh giá sai về thực tế khách quan” tồn tại vào thời điểm giao kết hợp đồng. Có thể nói nhầm lẫn là điều thường xảy ra, song để được xem là yếu tố để khẳng định hợp đồng vô hiệu lại cần có đặc điểm riêng. Chỉ khi nhầm lẫn về bẩn chất của vật hoặc sự việc là đối tượng hợp đồng hoặc khi nhầm lẫn về tư cách chủ thể mà theo tính chất của nghĩa vụ hoặc theo sự thỏa thuận thì nhân thân của đối tác là điều kiện quan trọng cho việc giao kết hợp đồng thì hợp đồng mới bị tuyên bố vô hiệu. Sự lừa dối: Tuy sự nhầm lẫn và lừa dối trong giao dịch đều có điểm chung là bên bị nhầm lẫn và bên bị lừa dối do hiểu sai lệch về tính chất của đối tượng nên đã xác lập hợp đồng. Nhưng giữa chúng có điểm khác nhau cơ bản đó là: sự nhầm lẫn có thể gây ra bởi lỗi cẩu thả, sơ suất, kém hiểu biết của bên bị nhầm lẫn hoặc do lỗi vô ý của bên kia hay bên thứ ba. Còn trong trường hợp xác lập giao dịch do lừa dối, sự nhầm lẫn lại được gây ra bởi hành vi mang tính chất cố ý của bên kia hoặc của người thứ ba. Lua doi la hành vi cố ý của một bên hoặc của người thứ ba nhằm làm cho bên kia hiểu sai lệch về chủ thể, tính chất của đối tượng hoặc nội dung của giao dịch nên đã xác lập giao dịch đó Sự đe dọa: Đe dọa là hành vi cố ý tác động vào ý chí của một người làm cho người đó khiếp sợ, buộc phải xác lập, thực hiện hợp đồng nhằm tránh thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, danh dự, uy tín, nhân phẩm, tài sản của mình hoặc của người thân. Rõ ràng, khi người bị đe dọa do khiếp sợ mà phải xác lập, thực hiện hợp đồng ngoài ý muốn của họ thì tất nhiên, ý chí được thể hiện trong giao dịch không phải là ý chí đích thực của họ. Do đó, hợp đồng được giao kết do bị đe dọa sẽ vô hiệu. “Đe dọa trong giao dịch dân sự là hành vi cố ý của một bên hoặc người thứ ba làm cho bên kia buộc phải thực hiện giao dịch nhằm tránh thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, danh dự, uy tín, nhân phẩm, tài sản của mình hoặc của cha, mẹ, vợ, chồng, con của mình” Xét về mặt hình thức, đe dọa thể hiện dưới hai dạng thức: sự tác động về thể chất mang tính cưỡng bức như dùng vũ lực gây đau đớn về thể xác cho bên đối tác hoặc gây áp lực về mặt tinh thần như đe dọa làm cho bên đối tác mất danh dự, uy tín 1.4. Điều kiện đối tượng hợp đồng: phải thực hiện được Yếu tố thứ ba không thể thiếu của hợp đồng chính là đối tượng. Sự thống nhất ý chí của các bên phải nhằm vào một đối tượng cụ thể. Đối tượng của hợp đồng phải được xác định rõ rệt và được phép giao dịch. Chẳng hạn, đối tượng của hợp đồng mua bán tài sản là vật thì vật phải được xác định rõ, không bị pháp luật cấm lưu thông trong giao dịch dân sự - kinh tế. Theo quy định tại Điều 411 BLDS, hợp đồng có đối tượng vì lý do khách quan không thể thực hiện được thì hợp đồng đó vô hiệu. 1.5. Điều kiện về hình thức của hợp đồng Yêu cầu về hình thức của pháp luật hợp đồng do pháp luật quy định. Không có một quốc gia nào không có yêu cầu về hình thức. Mục đích yêu cầu về hình thức là: + Tái xác lập ý chí tham gia hợp đồng của các bên trong các giao dịch tặng cho, bảo lãnh, hôn nhân (Có thể thấy điều này tại BLDS Đức điều 518 và 766) 13
  4. + Là bằng chứng trong giao dịch có giá trị lớn, trong BLDS Pháp, Luật Anh – Mỹ đều yêu cầu giao dịch có giá trị lớn hơn 5.000 Fr hay 500USD phải được lập thành văn bản. + Để công khai quyền sở hữu với bên thứ ba trong giao dịch có đăng ký như mua bán nhà đất. Đây là trường hợp Pháp, Nhật bản. + Để bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng. Luật Pháp và Nhật quy định: hợp đồng cung cấp điện, gas, nước, chuyển phát nhanh, bảo hiểm giữa nhà cung cấp và người tiêu dùng phải được cơ quan nhà nước phê chuẩn hợp đồng mẫu trước khi giao kết với công chúng Sự thỏa thuận giữa các bên tham gia hợp đồng phải được thể hiện dưới một hình thức nhất định. Đề bảo vệ lợi ích của Nhà nước, lợi ích của cộng đồng và sự an toàn của các bên, pháp luật đã quy định việc tuân thủ các quy định về hình thức đối với một số hợp đồng nhất định. Việc quy định một số hợp đồng phải tuân thủ các quy định về hình thức như việc: phải được thể hiện bằng văn bản, được công chứng, chứng thực hoặc đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền dựa trên cơ sở đối tượng của hợp đồng có giá trị lớn hoặc có tính năng đặc biệt, ví dụ như: hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ phải được công chứng, chứng thực tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Những quy định này còn là cơ sở để cơ quan nhà nước có thẩm quyền kiểm tra, giám sát việc dịch chuyển tài sản trong giao lưu dân sự. Có thể khẳng định bằng quy định về hình thức hợp đồng được Nhà nước quy định nhằm ngăn chặn các chủ thể trốn tránh, vi phạm nghĩa vụ với Nhà nước. Ví dụ như nghĩa vụ nộp thuế, nghĩa vụ tôn trọng sự kiểm soát của Nhà nước đối với giao dịch liên quan đến các loại tài sản đặc biệt. Tuy nhiên, quy định hình thức là điều kiện có hiệu lực của hợp đồng cần được quy định một cách thận trọng bởi điều đó chứng tỏ sự can thiệp của Nhà nước vào tự do hợp đồng của các bên chủ thể. Theo quy định pháp luật dân sự Việt Nam, điều kiện về hình thức có sự thay đổi đáng ghi nhận. Tại Điều 122 BLDS 2005 chỉ quy định ba điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự (hợp đồng) chứ không quy định bốn điều kiện như BLDS 1995. Cụ thể là BLDS 2005 đã bỏ điều kiện về hình thức của giao dịch. BLDS 2005 quy định hình thức của hợp đồng là điều kiện có hiệu lực của hợp đồng trong trường hợp pháp luật có quy định. 2. Hợp đồng vô hiệu và các trường hợp hợp đồng vô hiệu 2.1. Khái niệm Hợp đồng vô hiệu được hiểu là giao dịch có sự thể hiện ý chí của các bên tham gia, nhưng có sự vi phạm điều kiện có hiệu lực của hợp đồng đã được quy định trong BLDS Hợp đồng vô hiệu có đặc điểm: - Hợp đồng không thỏa mãn một trong các điều kiện hợp pháp theo quy định của pháp luật về hợp đồng. - Các bên tham gia hợp đồng phải chịu hậu quả pháp lý nhất định 2.2 Các trường hợp hợp đồng dân sự vô hiệu (4 tiết) 14
  5. Các trường hợp hợp đồng vô hiệu sẽ áp dụng các quy định của giao dịch dân sự vô hiệu, được quy định từ điều 128 đến điều 134 BLDS 2005. 2.2.1 Hợp đồng vô hiệu do vi phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo đức xã hội Điều 128 BLDS 2005 đã quy định: “Giao dịch dân sự có mục đích và nội dung vi phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo đức xã hội thì vô hiệu”. So sánh nội dung quy định này với BLDS 1995 có thể thấy rõ về hình thức và ngôn từ tại điều 128 thì không có những quy định hoàn toàn mới, song xét về mặt tư tưởng thì có thể thấy thay đổi cơ bản. Trước đây pháp luật quy định mà người dân thực hiện không đúng theo quy định đó hoặc pháp luật không có quy định cho phép hay cấm đoán nhưng người dân vẫn thực hiện giao dịch đó thì bị coi là trái pháp luật. Vì vậy, BLDS 1995 đã phân thành hai loại với cấp độ khác nhau đó là giao dịch dân sự có mục đích và nội dung trái pháp luật và giao dịch dân sự vô hiệu do vi phạm điều cấm của pháp luật với những hậu quả pháp lý khác nhau. Hiện nay, BLDS 2005 chỉ còn quy định giao dịch dân sự vô hiệu do vi phạm điều cấm của pháp luật. So sánh với BLDS 1995 có thể thấy BLDS 2005 đã sửa đổi theo hướng tăng tự do giao dịch dân sự bằng việc giới hạn những hạn chế tự do giao dịch. 2.2.2 Hợp đồng vô hiệu do người tham gia ký kết hợp đồng không có NLHV dân sự, hạn chế NLHV dân sự Theo Khoản 1, Điều 122 BLDS 2005, người xác lập, thực hiện hợp đồng dân sự có thể là cá nhân, pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác và trong một số trường hợp đặc biệt là Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Pháp luật dân sự Việt Nam quy định NLHV với các căn cứ xác định, phân chia thành các mức độ NLHV để phân biệt khả năng nhận thức và làm chủ hành vi của cá nhân. Theo đó dựa theo độ tuổi và khả năng phát triển nhận thức mà pháp luật phân biệt NLHV dân sự thành các cấp độ khác nhau như: + NLHV dân sự đầy đủ: là cá nhân đủ 18 tuổi trở lên, không bị Toà án tuyên bố mất NLHV hoặc hạn chế NLHV. Người có NLHVDS đầy đủ được tự do giao kết hợp đồng theo quy định của pháp luật [4, Điều 19]. + NLHV dân sự một phần: là những người chỉ có thể xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm trong một giới hạn nhất định do pháp luật dân sự quy định. Đối tượng là những người đủ 6 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi. Những cá nhân này khi xác lập giao dịch phải có sự đồng ý của người đại diện hoặc người giám hộ trừ những giao dịch nhỏ nhằm phục vụ nhu cầu sinh hoạt hằng ngày phù hợp với lứa tuổi. Người từ đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi có tài sản riêng được thực hiện giao dịch và phải chịu trách nhiệm trong phạm vi tài sản họ có, trừ trường hợp pháp luật quy định khác. + Không có NLHV dân sự: đối tượng là người chưa đủ 6 tuổi. Mọi giao dịch của họ phải do người đại diện theo pháp luật xác lập, thực hiện. + Mất NLHV dân sự và hạn chế NLHV dân sự Người bị tuyên bố mất NLHV là người mắc tâm thần hoặc các bệnh khác mà không thể nhận thức và làm chủ hành vi của mình. Toà án ra quyết định tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự trên cơ sở có kết luận của tổ chức giám định có thẩm quyền. 15
  6. Hạn chế NLHV dân sự là người nghiện ma túy, nghiện các chất kích thích khác dẫn đến phá tán tài sản gia đình. Với các cấp độ trên BLDS 2005 quy định: những hợp đồng dân sự do người mất NLHV, người không có NLHV xác lập; những hợp đồng dân sự do người chưa thành niên, người bị hạn chế NLHV xác lập vượt quá khả năng của mình thì vô hiệu. Để đáp ứng các lợi ích của những đối tượng này trong các quan hệ xã hội, pháp luật qui định hợp đồng dân sự của họ phải do người đại diện theo pháp luật xác lập và thực hiện. Ngoài ra, pháp luật cũng qui định cá nhân có NLHV đầy đủ có thể ủy quyền cho người khác xác lập, thực hiện hợp đồng dân sự vì lợi ích của mình (đại diện theo ủy quyền). Pháp nhân và các chủ thể còn lại của pháp luật dân sự giao kết, thực hiện hợp đồng phải thông qua vai trò của người đại diện. 2.2.3 Hợp đồng vô hiệu do người xác lập không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình khi xác lập hợp đồng Người có NLHV dân sự nhưng đã xác lập giao dịch vào đúng thời điểm không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình thì có quyền yêu cầu Toà án tuyên bố giao dịch dân sự đó là vô hiệu. Ví dụ, một người có NLHV bình thường nhưng đã ký hợp đồng mua bán tài sản trong lúc say rượu, không nhận thức được hành vi của họ thì trong trường hợp này hợp đồng bị coi là vô hiệu nếu người đó yêu cầu Toà án tuyên hợp đồng đó là vô hiệu. 2.2.4 Hợp đồng vô hiệu do giả tạo BLDS đã quy định tại Điều 129: “Giao dịch dân sự giả tạo là giao dịch được thiết lập giữa các bên nhằm mục đích che dấu một giao dịch khác hoặc trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ”. Trong trường hợp này, giao dịch giả tạo bị vô hiệu tuy nhiên giao dịch bị che giấu vẫn có hiệu lực trừ khi nó cũng bị vô hiệu theo các quy định khác của BLDS. Ví dụ như A ký kết hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ với B nhưng thiết lập hợp đồng thứ hai với giá bán thấp hơn giá thực tế các bên thỏa thuận nhằm trốn tránh nghĩa vụ đóng thuế với Nhà nước. 2.2.5. Hợp đồng vô hiệu do nhầm lẫn Điều 131 BLDS 2005 về giao dịch dân sự vô hiệu do bị nhầm lẫn quy định: “Khi một bên có lỗi vô ý làm cho bên kia nhầm lẫn về nội dung của giao dịch dân sự mà xác lập giao dịch thì bên bị nhầm lẫn có quyền yêu cầu bên kia thay đổi nội dung của giao dịch đó, nếu bên kia không chấp nhận thì bên bị nhầm lẫn có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch vô hiệu. Trong trường hợp một bên do lỗi cố ý làm cho bên kia nhầm lẫn về nội dung của giao dịch thì được giải quyết theo quy định tại Điều 132 của Bộ luật này”. 2.2.6. Hợp đồng vô hiệu do bị lừa dối, đe dọa Hợp đồng vô hiệu do đe dọa: Hợp đồng vô hiệu do đe dọa cũng được quy định trong BLDS nhiều nước trên thế giới cũng như tại BLDS Việt Nam. Điều 132 BLDS 2005 đã ghi nhận khái niệm đe dọa: “Đe dọa trong giao dịch là hành vi cố ý của một bên hoặc người thứ ba làm cho bên kia buộc phải thực hiện giao dịch nhằm tránh thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ, 16
  7. danh dự, uy tín, nhân phẩm, tài sản của mình hoặc của cha, mẹ, vợ, chồng, con của mình”. So sánh với Điều 142 BLDS 1995, Điều 132 BLDS 2005 đã cụ thể hóa “người thân thích” thành: “cha, mẹ, vợ, chồng, con” của người bị đe dọa Hợp đồng vô hiệu do lừa dối Lừa dối trong giao dịch dân sự là hành vi cố ý của một bên hoặc của người thứ ba nhằm làm cho bên kia hiểu sai lệch về chủ thể, tính chất của đối tượng hoặc nội dung của giao dịch nên đã xác lập giao dịch đó. Có thể thấy để được coi là lừa dối phải đảm bảo hai yếu tố: một là, một bên phải sử dụng thủ đoạn để lừa người khác và hai là, người kia phải nghe theo, làm theo một việc nào đó như giao kết hợp đồng. 2.2.7 Hợp đồng vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức Theo quy định tại Điều 124 BLDS 2005 thì giao dịch dân sự được thể hiện bằng lời nói, bằng văn bản và bằng hành vi cụ thể. Giao dịch dân sự thông qua phương tiện điện tử dưới hình thức thông điệp dữ liệu được xem là giao dịch bằng văn bản. Tùy theo tính chất của đối tượng giao dịch và nhu cầu quản lý của Nhà nước mà pháp luật dân sự có những yêu cầu khác nhau về hình thức giao dịch của hợp đồng. Đối với những hợp đồng được thiết lập nhằm thỏa mãn nhu cầu vật chất và tinh thần hằng ngày của cuộc sống và giá trị tài sản không lớn thì các bên có thể giao kết dưới hình thức miệng, có sự tự nguyện và thống nhất ý chí của các bên. Có những loại giao dịch pháp luật bắt buộc các bên phải thể hiện bằng văn bản và có trường hợp yêu cầu cao hơn là phải có công chứng chứng thực của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Chẳng hạn như đối với hợp đồng liên quan đến tài sản lớn hoặc bất động sản như hợp đồng mua bán nhà ở: “Hợp đồng mua bán nhà ở phải được lập thành văn bản, có công chứng hoặc chứng thực, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác” (Luật Nhà ở năm 2005 Điều 450). Quy định đó nhằm đảm bảo lợi ích công cộng, sự quản lý của nhà nước, lợi ích của các bên tham gia hợp đồng cũng như lợi ích của người khác. So sánh với BLDS 1995, chúng ta có thể thấy BLDS năm 2005 đã quy định điều kiện về hình thức của giao dịch nói chung và hợp đồng nói riêng có nhiều điểm khác. BLDS 1995 coi vi phạm điều kiện về hình thức là rất nghiêm trọng giống như với giao dịch dân sự cũng như hợp đồng vô hiệu do vi phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo đức xã hội hay vô hiệu do giả tạo Khoản 2 Điều 145 BLDS 1995 đã quy định: “ Đối với các giao dịch dân sự được quy định tại Điều 137, Điều 138 và Điều 139 của Bộ luật này, thì thời gian yêu cầu Toà án tuyên bố giao dịch vô hiệu không bị hạn chế”. Như vậy, bất cứ lúc nào các bên đương sự cũng có quyền yêu cầu Toà án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu do vi phạm điều kiện về hình thức. Còn theo quy định của BLDS 2005 thì hợp đồng vi phạm điều kiện về hình thức chỉ vô hiệu trong trường hợp pháp luật quy định. Theo Điều 136 BLDS 2005: thời gian tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu do vi phạm về hình thức chỉ có hai năm kể từ ngày giao dịch dân sự được xác lập, quá thời hạn này đương sự mới yêu cầu thì Toà án không chấp nhận yêu cầu đó. 2.2.8. Hợp đồng vô hiệu do đối tượng không thực hiện được Theo quy định tại điều 411 BLDS, hợp đồng có đối tượng vì lý do khách quan không thể thực hiện được ngay từ khi ký kết thì vô hiệu. Khi giao kết hợp đồng nếu một 17