Giáo trình Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin - Chương 1: Chủ nghĩa duy vật biện chứng

Chủ nghĩa duy vật biện chứng – hình thức phát triển cao nhất của chủ nghĩa duy vật
- Chủ nghĩa duy vật chất phác, được hình thành vào thời cổ đại, cố gắng vượt qua ảnh hưởng của tư
duy huyền thoại, giải thích nguyên nhân của thế giới từ chính thế giới, đã đồng nhất bản nguyên, tức cơ
sở ban đầu, nguyên nhân của mọi tồn tại, với các yếu tố vật chất cụ thể cảm tính hay các yếu tố giả định
do sự tưởng tượng của các triết gia.
- Chủ nghĩa duy vật siêu hình, xuất hiện từ thế kỷ thứ XV và đạt được đỉnh cao ở thế kỷ XIX dưới sự
tác động mạnh mẽ của phương pháp tư duy siêu hình, máy móc của cơ học cổ điển, xem thế giới giống
như một cổ máy cơ giới khổng lồ mà mỗi bộ phận tạo nên nó luôn ở trong trạng thái biệt lập tĩnh tại; nếu
có biến đổi thì đó chỉ là sự gia tăng đơn thuần về số lượng và do những nguyên nhân bên ngoài gây nên.
- Chủ nghĩa duy vật biện chứng, do C.Mác và Ph.Ăngghen, V.I.Lênin … bảo vệ và phát triển đã kế
thừa tinh hoa của các học thuyết triết học trước đó và sử dụng triệt để những thành tựu của khoa học tự
nhiên đương thời, nên khắc phục được những hạn chế của các chủ nghĩa duy vật trước, đưa chủ nghĩa
duy vật lên trình độ cao nhất trong lịch sử; vì vậy, nó đã cung cấp công cụ vĩ đại cho hoạt động nhận thức
khoa học và thực tiễn cách mạng. 
pdf 21 trang hoanghoa 07/11/2022 8360
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Giáo trình Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin - Chương 1: Chủ nghĩa duy vật biện chứng", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfgiao_trinh_nhung_nguyen_ly_co_ban_cua_chu_nghia_mac_lenin_ch.pdf

Nội dung text: Giáo trình Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin - Chương 1: Chủ nghĩa duy vật biện chứng

  1. a) Khái niệm chất, lượng - Khái niệm chất dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của sự vật, hiện tượng; là sự thống nhất hữu cơ giữa các thuộc tính, yếu tố cấu thành nó, làm cho sự vật nó là nó chứ không phải là cái khác. - Khái niệm lượng dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của sự vật về các phương diện: số lượng các yếu tố cấu thành, quy mô của sự tồn tại, tốc độ, nhịp điệu của các quá trình vận động, phát triển của sự vật. b) Quan hệ biện chứng giữa chất và lượng - Khái niệm độ dùng để chỉ mối liên hệ thống nhất giữa chất và lượng, là khoảng giới hạn và trong đó sự thay đổi về lượng chưa làm thay đổi chất của sự vật, hiện tượng. - Khi lượng thay đổi đến một giới hạn nhất định thì sẽ dẫn đến sự thay đổi về chất của sự vật, hiện tượng. Giới hạn đó chính là điểm nút. - Sự thay đổi về lượng khi đạt tới điểm nút với những điều kiện nhất định tất yếu sẽ dẫn đến sự ra đời của chất mới. Khái niệm bước nhảy dùng để chỉ sự chuyển hóa về chất trong quá trình phát triển của sự vật, hiện tượng. Bước nhảy là sự kết thúc một giai đoạn vận động, phát triển, đồng thời đó cũng là điểm khởi đầu cho một giai đoạn mới; là sự gián đoạn trong quá trình vận động phát triển liên tục của sự vật, hiện tượng. - Chất mới tác động tới lượng làm thay đổi kết cấu, quy mô, trình độ, nhip điệu của sự vận động và phát triển của sự vật. c) Ý nghĩa phương pháp luận - Trong nhận thức và thực tiễn cần phải: + Coi trọng cả hai phương diện chất và lượng của sự vật; khắc phục cả quan điểm tả khuynh lẫn hữu khuynh trong công việc. + Biết tích lũy về lượng để có thể làm thay đổi về chất của sự vật; đồng thời, có thể phát huy tác động của chất mới theo hướng làm thay đổi về lượng của sự vật. + Nâng cao tính tích cực chủ động của chủ thể để thúc đẩy quá trình chuyển hóa từ lượng đến chất một cách có hiệu quả nhất. 2. Quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập Nội dung quy luật này làm sáng tổ mâu thuẫn khách quan, vốn có của sự vật là nguồn gốc, động lực cơ bản, phổ biến của mọi quá trình vận động và phát triển xảy ra trong thế giới. . a) Khái niệm mâu thuẫn và các tính chất của mâu thuẫn - Khái niệm mâu thuẫn + Khái niệm mâu thuẫn dùng để chỉ mối liên hệ thống nhất, đấu tranh và chuyển hóa giữa các mặt đối lập của mỗi sự vật, hiện tượng hoặc giữa các sự vật hiện tượng với nhau. + Nhân tố tạo thành mâu thuẫn là mặt đối lập; Phạm trù mặt đối lập dùng để chỉ những mặt, những thuộc tính, những khuynh hướng vận động trái ngược nhau nhưng là điều kiện, tiền đề tồn tại của nhau trong một sự vật, trong một quan hệ. - Các tính chất của mâu thuẫn - Tính khách quan, phổ biến thể hiện ở chỗ mọi sự vật, hiện tượng thuộc mọi lĩnh vực hiện thực trong thế giới đều chứa đựng trong mình mâu thuẫn - sự thống nhất, đấu tranh và chuyển hóa của các mặt đối lập. - Tính đa dạng thể hiện ở chỗ, mỗi sự vật hiện tượng, quá trình đều có thể bao hàm nhiều loại mâu thuẫn khác nhau trong những điều kiện lịch sử cụ thể khác nhau; chúng giữ vị trí, vai trò khác nhau đối với sự tồn tại, vận động và phát triển của sự vật. b) Quá trình vận động của mâu thuẫn 11
  2. - Mâu thuẫn là sự thống nhất, đấu tranh và chuyển hóa của các mặt đối lập + Khái niệm thống nhất của các mặt đối lập dùng để chỉ sự liên hệ, ràng buộc, không tách rời nhau, quy định lẫn nhau giữa các mặt đối lập, mặt này lấy mặt kia làm điều kiện tiền đề cho sự tồn tại của chính mình. + Khái niệm đấu tranh của các mặt đối lập dùng để chỉ khuynh hướng tác động qua lại, bài trừ, phủ định nhau của các mặt đối lập. + Trong sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập, sự đấu tranh giữa chúng là tuyệt đối, còn sự thống nhất giữa chúng là tương đối, có điều kiện, tạm thời; trong sự thống nhất đã có sự đấu tranh, còn trong sự đấu tranh bao hàm tính thống nhất của chúng. - Quá trình thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập tất yếu dẫn đến sự chuyển hóa của chúng. Sự chuyển hóa của các mặt đối lập diễn ra hết sức phong phú, đa dạng, tùy thuộc vào tính chất của các mặt đối lập cũng như tùy thuộc vào những điều kiện lịch sử cụ thể c) Ý nghĩa phương pháp luận của quy luật - Trong nhận thức và thực tiễn cần phải phát hiện mâu thuẫn, phân tích đầy đủ các mặt đối lập, nắm được bản chất, nguồn gốc, khuynh hướng của sự vận động và phát triển - Khi giải quyết mâu thuẫn cần phải có quan điểm lịch sử cụ thể, tức là biết phân tích cụ thể từng loại mâu thuẫn và phương pháp giải quyết phù hợp. 3. Quy luật phủ định của phủ định Quy luật này làm sáng tỏ khuynh hướng cơ bản, phổ biến của mọi vận động, phát triển diễn ra trong thế giới. Đó là: thông qua những lần phủ định biện chứng, tạo thành hình thức vận động, phát triển mang tính chu kỳ “phủ định của phủ định”. a) Khái niệm phủ định, phủ định biện chứng - Khái niệm phủ định dùng để chỉ sự thay thế hình thái tồn tại này bằng hình thái tồn tại khác. - Khái niệm phủ định biện chứng dùng để chỉ những sự phủ định tạo ra điều kiện tiền đề cho quá trình phát triển của sự vật. Nó mang tính khách quan và tính kế thừa. + Tính khách quan thể hiện ở chỗ nguyên nhân của sự phủ định nằm trong chính bản thân sự vật, hiện tượng. + Tính kế thừa thể hiện ở chỗ, những yếu tố hợp quy luật được kế thừa, còn những yếu tố trái quy luật bị loại bỏ. b) Phủ định của phủ định - Khái niệm phủ định của phủ định dùng để chỉ chuỗi phủ định tạo nên quá trình phát triển của sự vật trong đó mỗi lần phủ định biện chứng đều tạo ra những điều kiện, tiền đề cho sự phát triển tiếp theo của nó. - Tính chất chu kỳ của quá trình phát triển thường biểu hiện dưới hình thức xoáy ốc. Đây cũng là tính chất “phủ định của phủ định”. Theo đó, mỗi chu kỳ phát triển của sự vật thường phải trải qua hai lần phủ định cơ bản với ba hình thái tồn tại chủ yếu của nó, trong đó hình thái cuối mỗi chu kỳ dường như lặp lại những đặc trưng cơ bản của hình thái ban đầu chu kỳ đó nhưng trên cơ sở cao hơn về trình độ phát triển nhờ kế thừa được những yếu tố tích cực và loại bỏ những yếu tố tiêu cực qua hai lần phủ định. - Khuynh hướng phát triển theo đường xoáy ốc thể hiện tính chất biện chứng của sự phát triển, đó là tính kế thừa, tính lặp lại và tính tiến lên theo đường xoắn ốc. c) Ý nghĩa phương pháp luận - Phải thấy được quá trình phát triển không diễn ra theo đường thẳng mà là con đường quanh co, phức tạp, gồm nhiều giai đoạn khác nhau, trong đó có cả những giai đoạn thụt lùi; nhưng cuối cùng sự vật cũng sẽ phát triển tiến lên. Do vậy phải có niềm tin vào xu hướng tất yếu là phát triển tiến lên của cái tiến bộ. 12
  3. - Cần nâng cao tính tích cực của nhân tố chủ quan trong mọi hoạt động, có niềm tin vào sự tất thắng cái mới, ủng hộ cái mới và đấu tranh cho cái mới thắng lợi. - Không phủ định sạch trơn nhưng không kế thừa toàn bộ mà phải biết loại bỏ có chọn lọc, kế thừa có phê phán. V. LÝ LUẬN NHẬN THỨC DUY VẬT BIỆN CHỨNG 1. Thực tiễn, nhận thức và vai trò của thực tiễn đối với nhận thức a) Thực tiễn và các hình thức cơ bản của thực tiễn - Thực tiễn là toàn bộ hoạt động vật chất có mục đích, mang tính lịch sử - xã hội của con người nhằm cải tạo tự nhiên và xã hội. Đó là hoạt động mà con người sử dụng những công cụ vật chất tác động tác động vào những đối tượng vật chất nhất định, làm biến đổi chúng theo mục đích của mình. - Thực tiễn biểu hiện rất đa dạng, song có ba hình thức cơ bản là: + Thực tiễn sản xuất vật chất là hình thức hoạt động cơ bản, đầu tiên của thực tiễn, trong đó con người sử dụng các công cụ lao động tác động vào tự nhiên, các điều kiện cần thiết để tạo ra của cải vật chất, duy trí sự tồn tại và phát triển của mình. + Thực tiễn chính trị - xã hội là hoạt động của các cộng đồng người, các tổ chức khác nhau trong xã hội nhằm cải biến những quan hệ chính trị - xã hội để thúc đẩy xã hội phát triển. + Thực tiễn thực nghiệm khoa học là một hình thức đặc biệt của hoạt động thực tiễn b) Nhận thức và các trình độ nhận thức - Nhận thức là một quá trình phản ánh tích cực tự giác và sáng tạo thế giới khách quan vào bộ óc con người trên cơ sở thực tiễn nhằm mang lại những tri thức về thế giới khách quan. Bởi vì: một là, thế giới vật chất tồn tại khách quan độc lập với ý thức con người; hai là, con người có khả năng nhận thức được thế giới khách quan, coi nhận thức là sự phản ánh thế giới khách quanvào trong bộ óc con người; ba là, sự phản ánh đó là một quá trình biện chứng tích cực, tự giác và sáng tạo. - Nhận thức có thể chia theo trình độ thành nhận thức kinh nghiệm và nhận thức lý luận; hay nhận thức thông thường và nhận thức khoa học; v.v c) Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức - Thực tiễn đóng vai trò là cơ sở, động lực, mục đích của nhận thức và là tiêu chuẩn cảu chân lý, kiểm tra tính chân lý của quá trình nhận thức. + Không có một lĩnh vực tri thức nào mà lại không xuất phát từ thực tiễn, không nhằm vào việc phục vụ, hướng dẫn thực tiễn. + Thực tiễn chẳng những là cơ sở, động lực, mục đích của nhận thức mà còn đóng vai trò là tiêu chuẩn của chân lý, kiểm tra tính chân lý của quá trình nhận thức. + Việc hiểu đúng vai trò của thực tiễn đối với nhận thức đòi hỏi chúng ta phải luôn nắm vững quan điểm thực tiễn. Nếu xa rời thực tiễn sẽ dẫn đến bệnh sai lầm chủ quan, duy ý chí, giáo điều, máy móc, quan liêu. + Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn phải là nguyên tắc cơ bản trong hoạt động thực tiễn và hoạt động lý luận: Lý luận mà không có thức tiễn làm cơ sở và tiêu chuẩn để xác định chân lý của nó thì đó chỉ là lý luận suông; ngược lại, thực tiễn mà không có lý luận khoa học, cách mạng soi sáng thì nhất định sẽ biến thành thực tiễn mù quáng. 2. Con đường biện chứng của sự nhận thức chân lý a) Quan điểm của V. I. Lênin về con đường biện chứng của sự nhận thức chân lý V.I.Lênin đã khái quát con đường biện chứng của sự nhận thức chân lý như sau: “Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, và từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn - đó là con đường biện chứng của sự 13
  4. nhận thức chân lý, của sự nhận thức hiện thực khách quan”. - Giai đoạn từ nhận thức cảm tính đến nhận thức lý tính + Trực quan sinh động (nhận thức cảm tính): Đó là giai đoạn đầu của nhận thức mà con người, trong hoạt động thực tiễn, sử dụng các giác quan để tiến hành phản ánh các sự vật khách quan, mang tính chất cụ thể cảm tính với những biểu hiện phong phú của nó trong mối quan hệ với sự quan sát của con người. Trong giai đoạn này nhận thức được thực hiện qua ba hình thức cơ bản: cảm giác, tri giác và biểu tượng. + Tư duy trừu tượng (nhận thức lý tính): Đó là giai đoạn cao của nhận thức cho phép con người phản ánh gián tiếp, trừu tượng và khái quát những thuộc tính, đặc điểm, quy luật, bản chất của sự vật. Trong giai đoạn này nhận thức được thực hiện thông qua ba hình thức cơ bản là: khái niệm, phán đoán và suy lý (suy luận). - Mối quan hệ giữa nhận thức cảm tính, nhận thức lý tính với thực tiễn + Nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính đan xen vào nhau trong một quá trình nhận thức, song chúng có những chức năng và nhiệm vụ khác nhau. Nếu nhận thức cảm tính gắn liền với thực tiễn, với sự tác động của khách thể cảm tính, là cơ sở cho nhận thức lý tính thì nhận thức lý tính, nhờ có tính khái quát cao, lại có thể hiểu biết được bản chất, quy luật vận động và phát triển sinh động của sự vật, giúp cho nhận thức cảm tính có được sự định hướng đúng và trở nên sâu sắc hơn. + Tuy nhiên, nếu dừng lại ở nhận thức lý tính thì con người mới chỉ có được những tri thức về đối tượng. Muốn biết những tri thức đó có thật sự chính xác hay không thì nhận thức phải trở về với thực tiễn, dùng thực tiễn làm tiêu chuẩn, làm thước đo tính chân thực của những tri thức đã đạt được trong quá trình nhận thức. Mặt khác, mọi nhận thức, suy đến cùng, đều là xuất phát từ nhu cầu thực tiễn và trở lại phục vụ thực tiễn. b) Chân lý và vai trò của chân lý đối với thực tiễn - Chân lý và các tính chất của chân lý + Khái niệm chân lý được dung để chỉ những tri thức có nội dung phù hợp với thực tế khách quan, sự phù hợp đó được kiểm tra và chứng minh bởi thực tiễn. Chân lý có tính khách quan, tính tương đối, tính tuyệt đối, tính cụ thể. + Tính khách quan nói lên sự không phụ thuộc về mặt nội dung của chân lý đối với ý muốn chủ quan của con người. + Tính tuyệt đối chỉ ra tính phù hợp hoàn toàn và đầy đủ giữa nội dung phản ánh và hiện thực khách quan. + Tính tương đối nói lên sự phù hợp nhưng chưa hoàn toàn đầy đủ của nội dung phản ánh của chân lý với hiện thực khách quan. Chân lý tuyệt đối và chân lý tương đối không tồn tại tách biệt nhau, mà có sự thống nhất biện chứng với nhau. + Tính cụ thể nói lên sự phù hợp giữa nội dung phản ánh của chân lý với đối tượng là sự phù hợp trong những điều kiện, hoàn cảnh cụ thể. - Vai trò của chân lý đối với thực tiễn: Hoạt động thực tiễn của con người chỉ thành công và có hiệu quả một khi con người vận dụng được những chân lý - tri thức đúng đắn về thực tế khách quan trong chính thực tiễn của mình. Chương ba CHỦ NGHĨA DUY VẬT LỊCH SỬ I. VAI TRÒ CỦA SẢN XUẤT VẬT CHẤT VÀ QUY LUẬT QUAN HỆ SẢN XUẤT PHÙ HỢP VỚI TRÌNH ĐỘ PHÁT TRIỂN CỦA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT 1. Sản xuất vật chất và vai trò của nó 14
  5. a) Sản xuất vật chất và phương thức sản xuất - Sản xuất vật chất là quá trình con người sử dụng những công cụ lao động tác động vào giới tự nhiên, cải biến các dạng vật chất của giới tự nhiên, nhằm tạo ra những sản phẩm thõa mãn nhu cầu tồn tại và phát triển của mình. + Sản xuất vật chất là một trong những loại hoạt động đặc trưng của con người; + Sản xuất vật chất mang tính khách quan, tính xã hội, tính lịch sử và tính sáng tạo. - Phương thức sản xuất là cách thức tiến hành quá trình sản xuất ra của cải vật chất. + Những phương thức sản xuất khác nhau tồn tại trong những nền sản xuất vật chất khác nhau. + Mỗi phương thức sản xuất đều có hai phương diện cơ bản: Phương diện kỹ thuật dùng để là chỉ quá trình sản xuất được tiến hành bằng cách thức kỹ thuật, công nghệ nào để làm biến đổi các đối tượng của quá trình sản xuất; Phương diện kinh tế dùng để chỉ quá trình sản xuất được tiến hành với những cách thức tổ chức kinh tế nào. b) Vai trò của sản xuất vật chất và phương thức sản xuất đối với sự tồn tại và phát triển của xã hội - Sự phát triển của sản xuất vật chất quyết định sự biến đổi, phát triển các mặt của đời sống xã hội, quyết định phát triển xã hội từ thấp đến cao. - Sự thay thế và phát triển của các phương thức sản xuất phản ánh xu hướng tất yếu khách quan của quá trình phát triển xã hội loài người từ trình độ thấp đến trình độ ngày càng cao hơn. Tuy nhiên, tùy theo điều kiện khách quan và chủ quan có thể có những biểu hiện đa dạng về con đường phát triển của nó: có tính chất đan xen giữa các phương thức sản xuất trong một thời kỳ phát triển hoặc có bước bỏ qua một hay một vài phương thức sản xuất và tiến thẳng lên phương thức sản xuất cao hơn. 2. Quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất a) Khái niệm lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất - Lực lượng sản xuất chính là toàn bộ các nhân tố vật chất kỹ thuật của quá trình sản xuất, chúng tồn tại trong mối quan hệ biện chứng với nhau tạo ra sức sản xuất làm cải biến các đối tượng trong quá trình sản xuất, tức tạo ra năng lực thực tiễn làm biến đổi các đối tượng vật chất của giới tự nhiên theo nhu cầu nhất định của con người và xã hội. Các yếu tố tạo thành lực lượng sản xuất gồm “người lao động” (giữ vai trò quyết định của LLSX) và tư liệu sản xuất (trong TLSX, công cụ lao động là yếu tố phản ánh rõ nét nhất trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và thể hiện tiêu biểu trình độ con người chinh phục giới tự nhiên) - Quan hệ sản xuất là mối quan hệ kinh tế giữa người với người trong quá trình sản xuất. Quan hệ sản xuất bao gồm: quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất (giữ vai trò quyết định trong QHSX), quan hệ trong tổ chức quản lý quá trình sản xuất và quan hệ trong phân phối kết quả của quá trình sản xuất đó. b) Mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất - Mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất (nội dung vật chất kỹ thuật) và quan hệ sản xuất (hình thức kinh tế) là mối quan hệ thống nhất chứa đựng mâu thuẫn của quá trình sản xuất xã hội, trong đó lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất và quan hệ sản xuất tác động trở lại lực lượng sản xuất. + Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất tồn tại trong tính quy định lẫn nhau, thống nhất với nhau. Tương ứng với thực trạng phát triển nhất định của lực lượng sản xuất cũng tất yếu đòi hỏi phải có quan hệ sản xuất phù hợp với thực trạng đó trên cả ba phương diện: sở hữu tư liệu sản xuất, tổ chức quản lý và phân phối. + Quan hệ sản xuất phụ thuộc vào thực trạng phát triển thực tế của lực lượng sản xuất hiện thực trong mỗi giai đoạn lịch sử xác định. + Tuy nhiên quan hệ sản xuất với tư cách là hình thức kinh tế của quá trình sản xuất, luôn luôn có tác động trở lại lực lượng sản xuất. Sự tác động này có thể diễn ra theo chiều hướng tích cực hoặc tiêu cực. + Mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là mối quan hệ thống nhất có bao hàm khả 15
  6. năng chuyển hóa thành các mặt đối lập và phát sinh mâu thuẫn. + Tính ổn định, phù hợp của quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản xuất càng cao thì lực lượng sản xuất càng có khả năng phát triển, nhưng chính sự phát triển của lực lượng sản xuất lại luôn tạo ra khả năng phá vỡ sự thống nhất của nó với hình thức kinh tế hiện thực đưa đến sự mâu thuẫn. + Mâu thuẫn và sự vận động của mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất chính là nội dung cơ bản của “quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất”. Sự tác động của quy luật này tạo ra nguồn gốc và động lực cơ bản nhất đối với sự vận động, phát triển của nền sản xuất vật chất và do đó, là sự vận động, phát triển của toàn bộ đời sống xã hội. II. BIỆN CHỨNG CỦA CƠ SỞ HẠ TẦNG VÀ KIẾN TRÚC THƯỢNG TẦNG 1. Khái niệm cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng a) Khái niệm cơ sở hạ tầng - Khái niệm cơ sở hạ tầng dùng để chỉ toàn bộ những quan hệ sản xuất của một xã hội trong sự vận động hiện thực của chúng hợp thành kết cấu kinh tế của xã hội đó. - Cơ sở hạ tầng của một xã hội được tạo nên bởi: quan hệ sản xuất thống trị, quan hệ sản xuất tàn dư và quan hệ sản xuất mới. b) Khái niệm kiến trúc thượng tầng - Khái niệm kiến trúc thượng tầng dùng để chỉ toàn bộ hệ thống kết cấu các hình thái ý thức xã hội cùng với các thiết chế chính trị - xã hội tương ứng, được hình thành trên một cơ sở hạ tầng nhất định. - Kiến trúc thương tầng của mỗi xã hội là một kết cấu phức tạp: hệ thống các hình thái ý thức xã hội (hình thái ý thức chính trị, pháp quyền, tôn giáo ), các thiết chế chính trị - xã hội tương ứng (nhà nước, chính đảng, giáo hội ; trong đó, chính đảng và nhà nước là hai thiết chế, tổ chức quan trọng nhất trong hệ thống kiến trúc thượng tầng của xã hội). 2. Quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng Cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng là hai phương diện cơ bản của đời sống xã hội, đó là phương diện kinh tế và phương diện chính trị - xã hội. Chúng tồn tại trong mối quan hệ thống nhất, tác động lẫn nhau, trong đó cơ sở hạ tầng đóng vai trò quyết định đối với kiến trúc thượng tầng và đồng thời kiến trúc thượng tầng thường xuyên có sự tác động trở lại cơ sở hạ tầng kinh tế của xã hội a) Vai trò quyết định của cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc thượng tầng - Tương ứng với một cơ sở hạ tầng sẽ sản sinh ra một kiến trúc thượng tầng phù hợp, có tác dụng bảo vệ cơ sở hạ tầng đó; - Tính chất mâu thuẫn trong cơ sở hạ tầng được phản ánh thành mâu thuẫn trong hệ thống kiến trúc thượng tầng. - Những biến đổi (hay mất đi) của cơ sở hạ tầng sẽ tạo ra nhu cầu khách quan phải có sự biến đổi (hay xuất hiện) của kiến trúc thượng tầng tương ứng; b) Vai trò tác động trở lại của kiến trúc thượng tầng - Với tư cách là hình thức phản ánh và được xác lập do nhu cầu phát triển của kinh tế, các yếu tố thuộc kiến trúc thượng tầng có vị trí độc lập tương đối của nó và thường xuyên có vai trò tác động trở lại cơ sở hạ tầng của xã hội; trong đó, nhà nước là nhân tố có tác động trực tiếp nhất và mạnh mẽ nhất tới cơ sở hạ tầng kinh tế của xã hội. - Sự tác động của kiến trúc thượng tầng có thể diễn ra theo xu hướng tích cực hoặc tiêu cực, điều đó phụ thuộc vào sự phù hợp của các yếu tố thuộc kiến trúc thượng tầng đối với nhu cầu khách quan của sự phát triển kinh tế, nếu phù hợp nó sẽ có tác dụng tích cực, ngược lại, sẽ có tác dụng tiêu cực, kìm hãm và phá hoại sự phát triển kinh tế trong một phạm vi và mức độ nhất định. 16