Giáo trình Những kiến thức cơ bản về công nghệ thông tin và truyền thông cho lãnh đạo trong cơ quan Nhà nước - Phần 5: Quản lý Internet
Internet đã tạo ra hàng loạt thách thức đối với các chính sách công và sự ổn
định trong vấn đề phát triển con người, cả trên toàn cầu lẫn ở phạm vi quốc
gia. Do đó, cần phải có những bước tiến trong các chính sách và thủ tục quốc
tế về việc quản lý vấn đề sử dụng Internet. Tuy nhiên, mặc dù khu vực Châu
Á Thái Bình Dương có lượng ngưởi sử dụng Internet nhiều nhất, nhưng khu
vực này lại có rất ít chính sách liên quan đến vấn đề phát triển Internet. Có rất
nhiều vấn đề và thách thức riêng liên quan đến quản lý Internet trong bối cảnh
của khu vực. Chính phủ của các nền kinh tế mới nổi cần phải hiểu rõ vấn đề
này nếu họ muốn có tiếng nói trên mạng thông tin toàn cầu.
Mục tiêu của học phần
Học phần này nhằm mục tiêu:
1. Mô tả những bước tiến trong các chính sách và thủ tục quốc tế đối với việc
quản lý vấn đề sử dụng Internet;
2. Đưa ra những vấn đề và thách thức riêng liên quan đến quản lý Internet
trong bối cảnh của khu vực.
Kết quả thu được
Sau khi hoàn thành học phần này, học giả có thể:
1. Mô tả những bước tiến trong các chính sách và thủ tục quốc tế trong việc
quản lý vấn đề sử dụng Internet;
2. Thảo luận các vấn đề chính trong việc quản lý Internet từ viễn cảnh của các
nước đang phát triển;
3. Chỉ ra những bước đầu để tiến tới việc quản lý Internet tại từng quốc gia
của người đọc.
định trong vấn đề phát triển con người, cả trên toàn cầu lẫn ở phạm vi quốc
gia. Do đó, cần phải có những bước tiến trong các chính sách và thủ tục quốc
tế về việc quản lý vấn đề sử dụng Internet. Tuy nhiên, mặc dù khu vực Châu
Á Thái Bình Dương có lượng ngưởi sử dụng Internet nhiều nhất, nhưng khu
vực này lại có rất ít chính sách liên quan đến vấn đề phát triển Internet. Có rất
nhiều vấn đề và thách thức riêng liên quan đến quản lý Internet trong bối cảnh
của khu vực. Chính phủ của các nền kinh tế mới nổi cần phải hiểu rõ vấn đề
này nếu họ muốn có tiếng nói trên mạng thông tin toàn cầu.
Mục tiêu của học phần
Học phần này nhằm mục tiêu:
1. Mô tả những bước tiến trong các chính sách và thủ tục quốc tế đối với việc
quản lý vấn đề sử dụng Internet;
2. Đưa ra những vấn đề và thách thức riêng liên quan đến quản lý Internet
trong bối cảnh của khu vực.
Kết quả thu được
Sau khi hoàn thành học phần này, học giả có thể:
1. Mô tả những bước tiến trong các chính sách và thủ tục quốc tế trong việc
quản lý vấn đề sử dụng Internet;
2. Thảo luận các vấn đề chính trong việc quản lý Internet từ viễn cảnh của các
nước đang phát triển;
3. Chỉ ra những bước đầu để tiến tới việc quản lý Internet tại từng quốc gia
của người đọc.
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Giáo trình Những kiến thức cơ bản về công nghệ thông tin và truyền thông cho lãnh đạo trong cơ quan Nhà nước - Phần 5: Quản lý Internet", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
- module5_2234_392561.pdf
Nội dung text: Giáo trình Những kiến thức cơ bản về công nghệ thông tin và truyền thông cho lãnh đạo trong cơ quan Nhà nước - Phần 5: Quản lý Internet
- Danh mục các trường hợp nghiên cứu 1. Thừa nhận các bằng chứng điện tử 37 2. Những nội dung phạm pháp: Hợp tác toàn cầu 38 3. Virus IloveYou 39 4. Quyền sao in âm nhạc 40 5. Tiêu chuẩn Châu Âu 41 6. Rà soát vấn đề mua bán trên mạng hàng năm 45 7. Thư nhắn rác khi nào thì dừng lại 47 8. Giải quyết vấn đề nghiện Internet 48 9. Chi phí hay Sự lừa đảo 419 Nigerian 49 10. Cưỡng dâm trên Cyberspace 50 11. Hiệp định Thỏa thuận Châu Âu về vấn đề tội phạm mạng 52 12. Liên minh chống thư rác 53 13. Sự đổi mới trong lĩnh vực viễn thông và chi phí sử dụng Internet 56 14. Bộ lọc tự đánh giá tự nguyện 57 15. Internet cho nông thôn 64 Danh mục các hình Hình 1. Đặt một website trên Internet 20 Hình 2. Sự tham gia đa chiều và đa cấp bậc vào quản lý Internet 25 Hình 3. Một hành động cân bằng trong bản quyền 60 Học phần 5 Quản lý Internet 11
- Danh mục từ viết tắt APCICT Trung tâm đào tạo phát triển Công nghệ thông tin Truyền thông Châu Á- Thái Bình Dương Asian and Pacific Training Centre for Information and Communication Technology for Development ccTLD Mã tên miền của quốc gia Country Code Top-Level Domain CoE Hội đồng Châu Âu Council of Europe CSC Trung tâm dịch vụ chung, Ấn Độ Common Services Center, India DEC Tập đoàn thiết bị số Digital Equipment Corporation DNS Hệ thống tên miền Domain Name System ESCAP Ủy ban kinh tế và xã hội Châu Á Thái Bình Dương Economic and Social Commission for Asia and the Pacific EU Ủy ban Châu Âu European Union FOSS Phần mềm mã nguồn mở và miễn phí Free and Open Source Software GPS Hệ thống định vị toàn cầu Global Positioning System gTLD Thế hệ tên miền cấp độ cao Generic Top-Level Domain ICANN Tổ chức hợp tác Internet về đăng ký tên và số hiệu Internet Corporation for Assigned Names and Numbers ICPEN Hệ thông tăng cường và bảo vệ người tiêu dùng quốc tế International Consumer Protection and Enforcement Network ICRA Hiệp hội xếp hạng nội dung Internet Internet Content Rating Association ICT Công nghệ thông tin và Truyền thông Information and Communication Technology ICTD Công nghệ thông tin và truyền thông phục vụ phát triển Information and Communication Technology for Development IP Giao thức Internet Internet Protocol IPv4 Giao thức Internet thế hệ 4 Internet Protocol version 4 IPv6 Giao thức Internet thế hệ 6 Internet Protocol version 6 ITU Hiệp hội Thông tin Viễn Thông Quốc tế International Telecommunication Union MDG Mục tiêu phát triển thiên niên kỷ Millennium Development Goal 12 Những kiến thức cơ bản về Công nghệ thông tin và Truyền thông cho Lãnh đạo trong cơ quan Nhà nước
- OECD Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế Organization for Economic Co-operation and Development PPP Hợp tác công –tư Private Public Partnership RIAA Hiệp hội công nghiệp thu âm Hoa Kỳ Recording Industry Association of America RIR Khu vực đăng ký Internet Regional Internet Registry TCP/IP Giao thức kiểm soát truyền dữ liệu/ Giao thức Internet Transmission Control Protocol/Internet Protocol TLD Tên miền cấp độ cao Top-Level Domain UN Liên hợp quốc United Nation USA Liên bang Mỹ United States of America WGIG Nhóm đặc trách quản lý Internet Working Group on Internet Government WSIS Hội nghị toàn cầu về Xã hội thông tin World Summit on the Information Society Học phần 5 Quản lý Internet 13
- 14 Những kiến thức cơ bản về Công nghệ thông tin và Truyền thông cho Lãnh đạo trong cơ quan Nhà nước
- 1. VẤN ĐỀ VÀ PHẠM VI CỦA QUẢN LÝ INTERRNET Phần này có mục đích cung cấp thông tin lịch sử sơ lược và bối cảnh của quản lý Internet và một số phạm vi chính của quản lý Internet. 1.1 Giới thiệu chung Phải thừa nhận rằng một phương thức thông tin liên lạc mới gọi là Internet đang ở tình trạng không thể quản lý được. Điều đó có nghĩa là, khi người dùng đầu tiên nói rõ ràng và thường xuyên rằng Internet là một sáng chế được đưa ra nhằm chống lại các cuộc tấn công nguyên tử, thoát khỏi tình trạng bị bao vây bằng con đường vòng, xuyên qua tất cả các biên giới quốc gia và do vậy được kiểm duyệt (censor-proof). Khó kiểm duyệt có nghĩa là nội dung của nó là rất khó nếu không muốn nói là không thể kiểm soát và do vậy người dùng rất khó có thể tuân theo một quy định nào.1 Hiện tại, hơn 10 năm sau khi Internet được phổ biến rộng rãi, chúng ta biết rằng những khái niệm trên về Internet là một chuyện hoang đường và Internet có thể được quản lý.Trên thực tế, có nhiều nước phát triển có các quy định về quản lý Internet trong khi các nước kém phát triển hơn lại có rất ít, thậm chí là không có các điều luật về quản lý Internet. Việc thiếu các quy định về quản lý Internet có thể dẫn đến việc các nước đang phát triển trở thành nơi trú ngụ của những tội ác sử dụng Internet, ví nhụ như thư rác và thông tin gian lận. Số lượng các quy định và điều luật không phải là vấn đề chính trong việc hạn chế sử dụng internet. Bởi nếu nó là nguyên nhân, thì những nước như Hoa Kỳ sẽ là nơi hạn chế sử dụng internet nhiều nhất trong khi các nước như CHDCND Lào, một quốc gia vẫn còn đang đối mặt với các vấn đề cơ sở hạ tầng yếu kém, sẽ là nơi phát triển Internet mạnh mẽ. Vấn đề ở đây là các quy định về quản lý Internet phải được đặt ra trên cơ sở hiểu rõ luật pháp, các vấn đề kỹ thuật và cả vấn đề hợp tác quốc tế. Học phần này có mục đích làm rõ các vấn đề này và chỉ ra các phương thức hợp tác quốc tế trong việc quản lý Internet. 1 Peng Hwa Ang, Ordering Chaos: Regulating the Internet (Singapore: Thomson, 2005). Học phần 5 Quản lý Internet 15
- 1.2 Lịch sử và cơ sở kỹ thuật của Internet Vấn đề lịch sử và sự phát triển kỹ thuật Internet được sáng chế ra không phải để tạo ra một mạng lưới thông tin giúp chống lại các cuộc tấn công nguyên tử mà là giúp cho các nhà vật lý có thể chia sẻ thông tin trên máy tính để giải quyết các vấn đề cần một mạng lưới các máy tính mới có thể giải quyết được. Vào thời điểm đó, máy tính là một thiết bị vô cùng đắt đỏ và được đặt ở những địa điểm cách xa nhau2. Phương pháp để kết nối các máy tính này lại bằng một giao thức được phát minh vào những năm 1960 đã không dựa trên các yếu tố kỹ thuật của một mạng lưới. Điều này là khác thường bởi người ta thường nghĩ rằng để gửi một tin nhắn từ địa điểm này đến địa điểm khác phải sử dụng các thiết bị và công nghệ tốt. Thay vào đó, giao thức này giúp gửi một tin nhắn từ máy tính bằng cách chuyển nó thành một gói thông tin và định dạng lại nó khi tới máy tính nhận. Nếu những tin nhắn này không được nhận một cách rõ ràng và đúng cách, nó sẽ được gửi lại. Phương thức chuyển thông tin này có nghĩa là mạng lưới không cần phải “điều tra”. Tất cả những điều cần ở đây là vạch ra một lộ trình cho tin nhắn đi, và các tin nhắn này sau đó lại phải tự tìm đường đi trong một “mạng lưới ngu ngốc”. “Giao thức kết nối Internet” này giúp các tin nhắn khi chuyển qua các mạng lưới khác nhau hiệu quả hơn nhiều so với giao thức sử dụng cho điện thoại. Tính ưu việt của Giao thức kết nối Internet đã được nêu bật từ những năm 1970 khi các công ty điện thoại bắt đầu quan tâm nghiên cứu về hệ thống của họ3. Mặc dù Hiệp hội Thông tin Viễn Thông Quốc tế (ITU), một tổ chức của Liên Hiệp Quốc lập ra để phối hợp thiết lập hệ thống thông tin viễn thông toàn cầu, đã phát triển một số giao thức và các tiêu chuẩn, sự khác nhau trong viễn cảnh sau này đã dẫn đến một sự xung đột về lợi ích giữa Giao thức kết nối Internet và giao thức kết nối của các công ty Điện thoại. 2 Katie Hafner and Mathew Lyon, Where Wizards Stay Up Late: The Origins of the Internet (New York: Simon and Schuster, 1998) 3 David S. Isenberg, “The Dawn of the Stupid Network,” ACM Networker 2.1 February/March (1998): 24- 31, 16 Những kiến thức cơ bản về Công nghệ thông tin và Truyền thông cho Lãnh đạo trong cơ quan Nhà nước
- Lịch sử quản lý Internet4 Phải hiểu rằng những giao thức và những tiêu chuẩn này là rất quan trọng đối với thế giới công nghệ bởi bất kỳ ai sử dụng/ điều khiển nó cũng có thể ra lệnh được, nếu không kiểm soát được thì hệ thống sẽ tự ra lệnh để kiểm soát. Đối với trường hợp của Internet, Giao thức được sử dụng để gắn kết các hệ thống mạng khác nhau được gọi là Giao thức kiểm soát truyền dữ liệu/ Giao thức Internet (TCP/IP). Do Vinton G.Ceft và Bob Kahn sáng chế ra năm 1974, Giao thức kết nối này đã rơi vào tranh cãi về chức năng của hệ thống mạng khi bất kỳ một hệ thống mạng nào sử dụng TCP/IP được mặc định là dùng Internet. Trong mục đích của học phần này, quy tắc quan trọng nhất của Giao thức là không có một sự kiểm soát trực tiếp nào về những thông tin truyền đi trên mạng lưới này, chỉ có sự kiểm soát về địa chỉ mà thông tin được chuyển đến. Vấn đề của địa chỉ này là phải có ai đó đảm bảo rằng sẽ không có sự tranh chấp về địa chỉ. Hệ thống địa chỉ mạng trên thế giới sử dụng các con số để chỉ rõ địa chỉ trên mạng. Một số người hoặc tổ chức phải đảm bảo rằng không thể có 2 địa chỉ sử dụng cùng 1 con số cụ thể, tức là phải có một danh mục địa chỉ cụ thể để loại trừ các xung đột này. Do vậy Jon Postel, người đã từng học tại Đại Học California tại Los Angeles và sau đó trở thành Giám đốc Học VIện Thông tin Khoa học - Đại học Bắc California, đã được tờ báo The Economist gọi là “Vị Chúa của Internet”. Ông đã giải quyết được hầu hết những xung đột để giúp cho hệ thống mạng này phát triển. Theo con số thống kê về sự tăng trưởng, càng ngày càng khó để có thể nhớ được các con số ghi địa chỉ trên Internet. Vào năm 1983, Postel và Paul Mockapetris đã đề xuất việc đặt tên bằng chữ cho các địa chỉ số trên Internet. VD: thay bằng việc đánh 64.233.161.18 thì người dùng có thể đánh google.com để tìm kiếm. Nó tương tự như việc đặt tên cho hệ thống số của điện thoại. Do vậy, hệ thống tên miền (DNS) ra đời. DNS cũng tạo ra một số vấn đề trái pháp luật.Điều này sẽ được đề cập cụ thể thông qua các chương sau. Hiện tại, điều quan trọng là phải hiểu thế nào là DNS để hiểu được các vấn đề của nó.5 4 Any book that touches on the history of the Internet would be a good reNguồn. Two such book are Hafner and Lyon’s Where Wizards Stay Up Late, and Jack Goldsmith and Tim Wu’s Who Controls the Internet: Illusions of a Borderless World. A reliable online reNguồn is The Internet Society’s Histories of the Internet at 5 See for a more detailed account of the DNS. Học phần 5 Quản lý Internet 17
- DNS là một hệ thống có cấp bậc như việc sử dụng cấu trúc “hình cây” để quản lý các thông tin về mạng và máy tính. Nó tương tự với một địa chỉ thư tín, như là một người để địa chỉ phố trước và sau đó là địa chỉ quốc gia, vì vậy cấp bậc địa chỉ tên miền cao nhất (TLD) được đặt ở cuối cùng và các địa chỉ cụ thể hơn được đặt trước. Vì vậy khi một máy tính tìm kiếm một địa chỉ mạng, có sẽ tìm từ phải qua trái, kiểm tra các máy chủ từ phải qua trái. Khi được đưa ra lần đầu tiên vào tháng 1 năm 1985, có 6 loại hệ thống tên miền: COM – Cho các tổ chức thương mại EDU – Cho các tổ chức giáo dục NET–Cho các nhà cung cấp mạng ORG – Cho các tổ chức phi chính phủ MIL – Cho Quân đội Hoa Kỳ GOV6 – Cho Chính phủ Hoa Kỳ Kể từ đó, nhiều thế hệ tên miền cấp độ cao (gTLDs) đã được đưa ra7. Có lẽ các tên miền hiện nay phục vụ cho mục đích hiện tại của chúng ta là việc tạo ra các các mã tên miền của quốc gia (ccTLDs). Những mã này là tương tự nhau nhưng không đồng nhất như theo quy định trong ISO 3166-1alpha- quy định 2 ký tự cho mã tên miền của từng quốc gia và các vùng lãnh thổ, và các ký tự này được sử dụng trong thương maại quốc tế8. Hoa Kỳ cũng có 2 ký tự của ccTLDs là US. Nhưng do vị thế thống trị của nó trong lịch sử và là nơi đầu tiên đưa ra Internet, một tên miền mà không có mã quốc gia, đặc biệt là tên miền COM, cũng thể hiện trang web là của Hoa Kỳ, và điều nay cũng thể hiện một tham vọng thống trị thế giới trong lĩnh vực này. 6 See for a more detailed account of the TLD system. 7 For a definitive list, see A more reader-friendly list is available at 8 See for more details about ISO 3166-1 alpha-2. 18 Những kiến thức cơ bản về Công nghệ thông tin và Truyền thông cho Lãnh đạo trong cơ quan Nhà nước
- Việc đưa ra các mã tên miền quốc gia chứng tỏ rằng các chính phủ có nhiều lựa chọn hơn khi chọn các tên miền. Ví dụ như với yahoo.fr, chứng tỏ rằng quyền kiểm soát các DNS tại Pháp do luật pháp của nước này điều chỉnh. Do vậy, trong một trường hợp nổi tiếng, một toà án của Pháp đã quyết định rằng Yahoo không có quyền bán bản quyền về các sự việc của Đức quốc xã trên trang web của họ cho người đọc của Pháp. Toà án của Pháp có thể đưa ra phán quyết như vậy là do tên miền yahoo.fr được bảo hộ tại Pháp. Yahoo sau đó đã đặt lại tên trang web của họ dùng tiếng Pháp thành fr.yahoo.com. Địa chỉ này có tên miền là .com, đối với Yahoo và trên một máy chủ của Pháp. Địa chỉ mới này có nghĩa rằng Yahoo có thể từ chối thực thi luật của Pháp mặc dù dường như không hề có một lý do về thương mại nào để Yahoo phải làm như vậy. Thực chất, Yahoo đã thay đổi tất cả các địa chỉ của họ trên các trang web nước ngoài thành các trang web có đuôi .com. Còn một vấn đề về kỹ thuật khác cần thảo luận ở đây, nó liên quan đến các máy chủ trung tâm. Khi một máy tính tìm kiếm một địa chỉ, nó sẽ bắt đầu từ phải sang trái. Với một gTLD nằm ở cuối của một địa chỉ trang web, việc đầu tiên máy tính tìm kiếm sẽ bắt đầu từ phải. Ví dụ như với trang www.google.com, máy tính sẽ bắt đầu tìm kiếm từ .com. Tại đó, mã moderm DNS đã được “thêm vào’ một mã code: tất cả các tên miền trên Internet đều phải kết thúc bằng một dấu chấm “.” Và nó được chuyển đến một máy chủ trung tâm. Có 12 tổ chức trung tâm, được gọi là các máy chủ điều khiển trung tâm, để chạy các máy chủ được đánh dấu từ A tới M. chức năng của máy chủ A là máy chủ chính, liên kết với các máy chủ khác từ B tới M một vài lần trong ngày để cập nhật thông tin. Trên thực tế, rất nhiều thông tin được lưu trữ trong các máy chủ khác nhau trên toàn thế giới, điều này là để giảm lưu lượng trên Internet và đẩy nhanh tốc độ thông tin. Khu vực này được gọi là Khu vực trung tâm9. Vì các máy chủ trong khu vực điều khiển trung tâm đóng vai trò cốt lõi trong việc vận hành Internet, do vậy còn có những máy chủ được đặt ẩn đối với các tin tặc và được gọi là máy chủ ẩn. Máy chủ ẩn và máy chủ A đều được đặt tại Hoa Kỳ. 9 Wolfgang Kleinwächter, “De-Mystification of The Internet Root: Do We Need Governmental Oversight?” in Reforming Internet Governance, ed. William J. Drake (New York: UN ICT Task Force, 2005), 209-225, pdf Học phần 5 Quản lý Internet 19
- Hình 1. Đặt một website trên Internet (Nguồn: DiploFoundation, Điều này đặt ra một câu hỏi rằng điều gì sẽ xảy ra với hệ thống Internet của một quốc gia nếu quốc gia này có chiến tranh với Hoa Kỳ. Chính phủ Mỹ có xoá nước này khỏi máy chủ trung tâm khiến cho nước này biến mất khỏi Internet? Trước cuộc chiến tại Iraq, tên miền IQ đã biến mất khỏi Internet. Tên miền IQ không hề được các đồng minh của Saddam Hussein duy trì mà là do người Palestin sống ở Texas. Những nhà khai thác tên miền, anh em nhà Elashi và các cộng sự kinh doanh của họ, đã bị bắt và kết án năm 2002 do bán linh phụ kiện máy tính một cách bất hợp pháp sang Libya và Syria. Một cách trùng hợp, hệ thống tên miền IQ đã bị ngăn chặn ngay trước cuộc chiến. Vào ngày 28 tháng 7 năm 2005, trơng thời gian bản báo cáo của Nhóm công tác do Liên hiệp quốc chỉ định về quản lý Internet (WGIG) vừa hoàn thành và trước khi nó được dịch sang ngôn ngữ chính thức của Liên Hiệp Quốc, tên miền IQ đã được trao trả lại cho chính phủ Iraq. Lý do của việc này chỉ có một rằng vào thời điểm đó mới có một chính phủ Iraq ổn định và có khả năng điều hành. 20 Những kiến thức cơ bản về Công nghệ thông tin và Truyền thông cho Lãnh đạo trong cơ quan Nhà nước
- Quản lý khu vực trung tâm chính là vấn đề cốt lõi trong quản lý Internet. Tuy nhiên vẫn còn một số vấn đề quan ngại khác nữa. Một vài quốc gia lo lắng về vấn đề phân loại các địa chỉ IP. Do sự phát triển Internet một cách lung tung và không có kế hoạch từ trước, một vài trường đại học của Mỹ còn có nhiều địa chỉ IP hơn cả một vài quốc gia. Vấn đề này không chỉ là do nền tảng của các địa chỉ IP mà còn do một lúc nào đó tài nguyên địa chỉ IP sẽ cạn kiệt. Trong giao thức Internet phiên bản 4 (IPv4) đang được sử dụng, có tới 4,294,967,296 địa chỉ IP khác nhau. Do dân số thế giới lớn hơn con số này rất nhiều, có khả năng số lượng địa chỉ IP này sẽ hết. Trên một khía cạnh nào đó, vấn đề này đã được cải thiện bằng cách sử dụng một cách hiệu quả hơn hệ thống địa chỉ IP và việc ra đời Giao thức Internet phiên bản 6 (IPv6), phiên bản có tới 340,282,366,920,938,463,374,607,432,768,211,456 địa chỉ IP khác nhau.10 Vấn đề quản lý Internet được đặt lên trên trong cuộc hội nghị toàn cầu năm 2003 về vấn đề Xã hội thông tin (WSIS). Trong khi nhiều quốc gia muốn giải quyết vấn đề quản lý Internet, Hoa Kỳ có quan điểm rằng không có đủ khả năng giải quyết vấn đề này, đặc biệt là ở các nước đang phát triển. Do vậy, một nhóm công tác do Tổng thư ký Liên hiệp quốc chỉ định sẽ có trách nhiệm báo cáo vấn đề này. Tuyên bố chung chính thức của WSIS ghi rõ rằng: 50. Vấn đề quản lý Internet tầm cỡ quốc tế sẽ được giải quyết theo phương thức hợp tác. Chúng tôi yêu cầu Tổng thư ký Liên Hiệp quốc của một nhóm công tác về vấn đề quản lý Internet, theo một quá trình mở và bảo đảm rằng thể chế này có sự tham gia một cách toàn diện và năng động của các chính phủ, khu vực tư nhân và toàn xã hội của tất cả các quốc gia phát triển và đang phát triển, liên quan tới các tổ chức và diễn đàn quốc tế và liên chính phủ, để điều tra và đề xuất các giải pháp cho việc quản lý Internet đến năm 2005.11 WGIG bao gồm 40 chuyên viên có nhiệm vụ tìm ra sự thật, như việc khẳng định rằng quản lý Internet là quan trọng và ai sẽ có trách nhiệm trong việc này. Và đưa nó vào báo cáo của WGIG. 10 OECD, “Governments and business must tackle Internet address shortage together, says OECD,” 15 May 2008, 11 World Summit on the Information Society, Declaration of Principles – Building the Information Society: A global challenge in the new Millennium (12 December 2003), Học phần 5 Quản lý Internet 21
- Câu hỏi suy nghĩ Tầm quan trọng của quản lý Internet ở nước bạn? Tự kiểm tra 1. Tại sao lại phát minh ra Internet? 2. Người ta cho rằng Internet không có “trung tâm”. Điều này có đúng không? 3. Làm thế nào để cấu trúc được mạng Internet? 4. Điểm khác nhau giữa một địa chỉ IP mà một tên miền? 5. Điểm khác nhau trên thực tế giữa hai phiên bản IPv4 và IPv6? 22 Những kiến thức cơ bản về Công nghệ thông tin và Truyền thông cho Lãnh đạo trong cơ quan Nhà nước
- 2. VẤN ĐỀ QUẢN LÝ ĐA CHIỀU VÀ ĐA CẤP BẬC ĐỐI VỚI INTERRNET Chương này có mục đích đưa ra một cái nhìn tổng quan về Báo cáo của WGIG, một tình trạng căng thẳng về chính trị xung quanh một khía cạnh gây nên sự bất đồng lớn nhất trong vấn đề quản lý Internet, và được tranh cãi rất nhiều trên các diễn đàn về quản lý Internet. Một vấn đề pháp lý trong việc quản lý Internet là lời khuyên không phá hủy các chức năng của Internet. Do vậy, WGIG đưa ra một số quy tắc của họ rằng Internet sẽ tiếp tục ổn định và an ninh, cấu trúc và sự phát triển các tiêu chuẩn vẫn để ngỏ và phù hợp, và các tên miền, các con số vẫn tiếp tục được quản lý một cách chuyên nghiệp. 2.1 Khái niệm Khái niệm quản lý Internet bắt đầu được đưa ra tranh luận. Với cương vị tại WGIG, và sau đó là ITU, Tổng thư ký Yoshio Utsumi, đã đưa ra một khái niệm hẹp hơn về Quản lý Internet: Rất nhiều vấn đề có thể sai dưới một khái niệm chính trị rộng hơn về “quản lý Internet”, một khái niệm đã được mở rộng trong phần đầu định nghĩa của WGIG và đã được thống nhất về cơ bản và được đưa ra trong bản hồ sơ cuối cùng trong phần định nghĩa này. Các chính phủ đã có được một sự đồng thuận, theo như trong Hammamet, rằng vấn đề này không nên bàn thảo thêm nữa. Vì vậy, không phải tiếp tục thảo luận về vấn đề như việc trao đổi thông tin tự do, đếm thư rác, an ninh mạng, các máy chủ trung tâm của từng khu vực, bảo vệ quyền riêng tư hoặc không sử dụng ICTs. Thay vào đó, chúng ta nên tập trung vào các hành động chính trong việc quản lý các nguồn tài nguyên Internet với ICANN ( Tổ chức hợp tác Internet về đăng ký tên và số hiệu), mà nói riêng là các tên miền chính, những vấn đề quan trọng vẫn chưa được giải quyết.12 12 Yoshio, Utsumi, Welcome Speech (First Meeting of the Working Group on Internet Governance Geneva, Switzerland, 23-25 November 2004), Học phần 5 Quản lý Internet 23