Giáo trình môn Giáo dục thể chất - Trường Đại học Thăng Long

Con người trong quá trình tiến hoá, để sinh tồn trong sự đấu tranh với tự nhiên đã hình thành và phát triển những kỹ năng như chạy, nhảy, bơi leo trèo... Trải qua quá trình sống, con người đã nhận biết rằng sự thành thục các kỹ năng trên sẽ giúp ích nhiều trong việc tìm kiếm thức ăn, để có thể hình thành những kỹ năng đó chỉ có thông qua tập luyện thường xuyên, từ đó các bài tập thể chất ra đời. Có thể nói thể dục thể thao hình thành cùng với sự tiến hoá của loài người thông qua con đường lao động và đấu tranh sinh tồn với thiên nhiên.
doc 72 trang Khánh Bằng 27/12/2023 6240
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Giáo trình môn Giáo dục thể chất - Trường Đại học Thăng Long", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • docgiao_trinh_mon_giao_duc_the_chat_truong_dai_hoc_thang_long.doc

Nội dung text: Giáo trình môn Giáo dục thể chất - Trường Đại học Thăng Long

  1. và CO2 lại khác nhau bởi lẽ mỗi lần hô hấp thì có khoảng 150 ml không khí được lưu lại trong đường hô hấp mà không thể vào trong phế bào để tiến hành giao đổi. Do đó lượng khí giao đổi sẽ là: Ở người bình thường: (300 ml - 150 ml) 32 = 4800 ml. Ở vận động viên là: (600 ml - 150 ml) 16 = 7200 ml. Điều này cho thấy khi cơ bắp làm việc thì nhu cầu về Oxy tăng lên, ở người bình thường sẽ phải tăng tần số hô hấp để đáp ứng nhu cầu đó do vậy khi vận động thường thở gấp. Nhưng ở vận động viên do vì cơ năng hô hấp được nâng lên, hô hấp sâu. Trong cùng một điều kiện như nhau, tần số hô hấp chưa cần tăng cao thì đã đáp ứng đủ nhu cầu không khí để giao đổi do đó có thể làm việc được trong thời gian dài mà không dễ mắc bệnh. Ngoài ra, do kết quả của tập luyện thể dục thể thao lâu dài đã cải thiện được chức năng của hệ thống hô hấp và các hệ thống khác (hệ thống thần kinh, hệ thống tuần hoàn ) nâng cao năng lực nhả CO2 và hấp thụ Oxy khi trao đổi khí, làm cho vận động viên khi hoạt động kịch liệt vẫn có thể phát huy chức năng của hệ hô hấp (ở người bình thường khó có thể đạt được). Do vậy mà làm cho quá trình Oxy hoá các vật chất năng lượng càng thêm hoàn thiện. Điều này đảm bảo cho việc cung cấp đầy đủ năng lượng khi vận động. Người bình thường khi thực hiện các bài tập thể dục thể thao việc trao đổi Oxy có thể đạt được 60% tổng số khí khi hô hấp. Nhưng sau khi trải qua tập luyện thể dục thể thao thì năng lượng trao đổi này đã được nâng lên rõ rệt khi hoạt động vận động nhu cầu Oxy tăng lên vẫn có thể đáp ứng được nhu cầu đó của cơ thể mà không làm cho cơ thể thiếu khí quá mức. Tập luyện thể dục thể thao còn có thể rèn luyện con người nâng cao được năng lực chịu đựng nợ dưỡng khí (khả năng chịu đựng thiếu Oxy). Trong điều kiện thiếu Oxy vẫn có thể kiên trì thực hiện các hoạt động cơ bắp phức tạp. Ví dụ như: VĐV leo núi trong điều kiện núi cao thiếu Oxy, không chỉ phải duy trì các hoạt động duy trì tính mạng mà còn phải không ngừng hoàn thành nhiệm vụ leo lên đỉnh núi đầy khó khăn. I.3. Sự ảnh hưởng của tập luyện thể dục thể thao đối với chức năng của hệ tuần hoàn: Một hệ thống tuần hoàn tốt là điều kiện bắt buộc phải có cho một cơ thể cường tráng khoẻ mạnh. Tập luyện thể dục thể thao có thể nâng cao chức năng của tim, tăng nhanh tốc độ tuần hoàn máu, nâng cao được chức năng của hệ thống huyết quản. 11
  2. Hệ thống tuần hoàn là do tim, máu và hệ thống huyết quản tạo thành vì vậy mà gọi là hệ thống tuần hoàn máu. Tim là nơi phát ra động lực làm cho máu lưu động, huyết quản là con kênh dẫn máu đi khắp nơi trong cơ thể, máu thì phụ trách việc vận chuyển dinh dưỡng, Oxy, các sản phẩm thải của quá trình trao đổi chất và CO 2. Tim có tác dụng làm cho máu luôn lưu động trong huyết quản mang Oxy và các chất dinh dưỡng để cho các tổ chức, tế bào, đồng thời đem các chất thải của quá trình trao đổi chất sản sinh ra cũng như CO2 ra ngoài phổi, thận và da Tập luyện thể dục thể thao có tác dụng rất tốt đối với các cơ quan, hệ thống trong cơ thể, đối với hệ thống huyết quản cũng như vậy. Khi tiến hành tập luyện thể dục thể thao sự tiêu hao năng lượng và các sản phẩm thừa của quá trình trao đổi chất tăng lên trong cơ thể. Lúc này đòi hỏi phải nâng cao chức năng của tim, tăng nhanh tốt độ lưu truyền máu, đồng thời nâng cao chức năng của hệ tuần hoàn. Ví dụ: Trong hoạt động ở các môn chạy dài, bóng đá, bóng rổ hay bơi lội đều có thể làm cho chức năng của hệ thống tuần hoàn đạt được sự tăng cường rõ rệt, làm cho cơ tim dầy lên, tần số mạch và huyết áp giảm, làm cho hệ tuần hoàn được tập luyện, kết cấu, chức năng có được sự cải thiện chủ yếu biểu hiện ở các phương diện sau: a.Tăng cường tính vận động của tim. Tập luyện thể dục thể thao làm tăng cường máu của cơ tim, làm cho cơ tim có nhiều vật chất dinh dưỡng hơn. Do tập luyện thể dục thể thao cơ tim dần dần được tăng cường, thành tim dầy lên, thể tích khoang tim tăng lên (người bình thường khoảng 700ml, VĐV là 1000ml). Do vậy thể tích khoang tim của VĐV lớn hơn một chút so với người bình thường. Hiện tượng này được gọi là “phì đại tim mang tính vận động” Người thường xuyên tập luyện thể dục thể thao do tập luyện thường kỳ, cơ ở khoang tim sẽ to và khoẻ dần lên, dùng máy chuyên môn để xem xét có thể thấy khoang tim của họ to hơn một chút so với người thường, ngoại hình đầy đặn, cơ tim phát triển, lực co bóp tim tăng lên, dung lượng tim cũng tăng lên nhiều, do vậy mà mỗi lần co bóp tim lượng máu được đẩy ra khỏi tim (lưu lượng tâm thu) cũng tăng lên. b.Tần số mạch giảm và chậm khi yên tĩnh. Ở người bình thường tần số mạch vào khoảng 70-80 lần/phút, thường xuyên tập luyện thể dục thể thao tần số mạch đập chỉ khoảng 50-60lần/phút, các vận động viên ưu tú có khi giảm xuống tới 40lần/phút. Điều này là do ở VĐV lưu lượng tâm thu 12
  3. tăng lên do đó tần số mạch giảm xuống nhưng vẫn cung cấp đủ cho nhu cầu trao đổi chất của toàn bộ cơ thể. Trong trạng thái yêu tĩnh, lưu lượng phút mà cơ thể đòi hỏi khoảng 75lần. Trong khi đó lưu lượng tâm thu ở VĐV khoảng 90ml, tim chỉ cần co bóp khoảng 50 lần là đủ cung cấp máu cho cơ thể. Tần số mạch giảm xuống do đó mà tim có nhiều thời gian nghỉ ngơi. c.“Tiết kiệm hoá” trong làm việc của tim: Tiến hành vận động nhẹ nhàng, ở cùng một lượng vận động, tần số mạch đập và biên độ biến đổi huyết áp ở người thường xuyên tập luyện thể dục thể thao nhỏ hơn người bình thường và không dễ bị mệt mỏi, hồi phục nhanh. Người không thường xuyên tập luyện sẽ đòi hỏi tần số mạch cao hơn, do đó thời gian nghỉ ngơi của tim ngắn đi, rất dễ mệt mỏi, sau khi vận động thời gian hồi phục cũng cần dài hơn. Nguyên nhân chủ yếu là người thường xuyên tập luyện có lực co bóp tim lớn hơn, lưu lượng tâm thu lớn hơn, do đó chỉ cần tăng một chút tần số mạch là đã có thể đáp ứng đủ yêu cầu, đồng thời do việc tập luyện thể dục thể thao làm cho huyết quản bảo vệ và duy trì tốt sự lưu truyền của máu nên ở các VĐV nhẹ nhàng, biên độ biến hoá về tần số mạch và huyết áp đều nhỏ hơn so với ở người bình thường. Hiện tượng này được gọi là hiện tượng “tiết kiệm hoá” (xem bảng 2). Bảng 2: Bảng đối chiếu chức năng tim Người thường xuyên tập thể Nội dung đối Người thường dục thể thao chiếu Khi yên tĩnh Khi vận động Khi yên tĩnh Khi vận động Tần số mạch đập 61 lần 150 lần 56 lần 86 lần trong 1 phút Lưu lượng tâm 69 ml 71ml 87ml 127,5ml thu Lưu lượng phút 4,2lít 10,7lít 4,9lít 11lít d. Khi hoạt động kịch liệt, chức năng của tim có thể đạt tới trình độ cao. Người thường xuyên tập luyện thể dục thể thao thì chức năng của tim rất tốt, đó là cơ tim khoẻ, dung lượng tim lớn, lực co bóp tim khoẻ. Khi hoạt động kịch liệt có thể nhanh chóng phát huy chức năng tim, có thể đạt đến mức độ mà ở người thường không thể đạt tới. Ví dụ như tần số mạch đập của VĐV ưu tú có thể đạt tới 200-220 lần/phút, lưu lượng phút có thể đạt tới trên 40lít. 13
  4. Do vậy có thể đảm nhiệm được những công việc hoặc lao động với lượng vận động huấn luyện hoặc phụ tải rất lớn, trong khi đó ở người thường tần số mạch đập tối đa chỉ đạt tới 180 lần/phút, lúc này lượng máu trở về tim sẽ giảm xuống do vậy lưu lượng tâm thu giảm xuống, tuần hoàn máu vì thế cũng giảm hiệu quả. Cũng với sự tích luỹ các sản phẩm của trao đổi chất (axit lactic) làm cho khó có thể duy trì được công việc thậm chí còn xuất hiện hiện tượng tức ngực, khó thở, loạn nhịp tim, đau đầu sự hồi phục sau vận động giảm. e.Tăng tính dẫn truyền của huyết quản. Tập luyện thể dục thể thao có thể tăng cường được tính dẫn truyền máu của thành mạch, điều này là rất có lợi đối với người già. Ở người già, cùng với sự gia tăng của tuổi tác, tính dẫn truyền của máu thành mạch cũng giảm xuống, chính vì vậy mà ở người già thường hay mắc các bệnh tuổi già đặc biệt là bệnh cao huyết áp. Người già thông qua tập luyện thể dục thể thao có thể tăng cường tính dẫn truyền máu của thành mạch, từ đó có thể phòng ngừa được các bệnh tuổi già và bệnh cao huyết áp. Ngoài ra, y học đã chứng minh, thường xuyên tập luyện thể dục thể thao sẽ làm tăng hàm lượng hồng cầu, bạch cầu, có thể cung cấp kịp thời dinh dưỡng và Oxy cho cơ thể, mang các chất thải của quá trình trao đổi chất cũng như CO2 ra ngoài. Cùng với mức sống ngày càng cao, nếu như không thường xuyên tham gia tập luyện thể dục thể thao thì “bệnh văn minh” tất nhiên sẽ gia tăng. Hiện nay đã không có ít người chết vì mắc các bệnh về tim mạch, ở Liên bang Đức 20 trở lại đây, số lượng người chết vì bệnh tim chiếm 52%-53% tổng số ngưới chết. Theo tài liệu thống kê của tổ chức y tế thế giới công bố năm 1984 số người chết do mắc các bệnh về tim là một trong những nguyên nhân dẫn đến tử vong chiếm tỷ lệ cao nhất. Do vậy việc thường xuyên tập luyện thể dục thể thao đóng một vai trò hết sức quan trọng trong việc giảm tỷ lệ người mắc các bệnh liên quan đến tim và hệ tuần hoàn. I.4. Sự ảnh hưởng của tập luyện thể dục thể thao đối với hệ tiêu hoá: Dạ dày và ruột là những cơ quan chủ yếu của hệ thống tiêu hoá trong cơ thể. Năng lực tiêu hoá của dạ dày và ruột tốt sẽ có những ảnh hưởng tốt đối với sức khoẻ con người. Thường xuyên tập luyện thể dục thể thao sẽ nâng cao được công năng tiêu hoá của dạ dày và ruột, tăng cường sự khoẻ mạnh cho gan, đồng thời còn có tác dụng trị liệu và phòng ngừa một số bệnh về hệ thống tiêu hóa. Thường xuyên tập luyện, do nhu cầu hoạt động của cơ bắp nên dạ dày và ruột phải tăng cường chức năng tiêu hoá, lúc này dịch và men tiêu hoá tăng lên nhiều, sự 14
  5. co bóp ở đường dẫn truyền tiêu hoá càng được tăng lên mạnh mẽ, tuần hoàn máu ở dạ dày và ở ruột cũng được cải thiện. Do phát sinh các thay đổi nêu trên mà việc tiêu hoá thức ăn và hấp thụ các chất dinh dưỡng được diễn ra thuận lợi, mặt khác do khi vận động phải hô hấp sâu, cơ hoành cách hoạt động với biên độ lớn nên đã di chuyển nhiều xuống phía dưới, cơ bụng cũng hoạt động mạnh, điều này đã có tác dụng mát xa cho dạ dày và ruột. Do tập luyện thể dục thể thao có tác dụng nâng cao năng lực tiêu hoá của dạ dày và ruột như vậy nên đã có không ít người sử dụng tập luyện thể dục thể thao như một phương pháp trị liệu đối với một số bệnh dạ dày và họ đã thu được hiệu quả nhất định. Gan là một tạng lớn trong cơ thể con người, nó đóng vai trò hết sức quan trọng đối với hệ tiêu hoá, thường xuyên tập luyện thể dục thể thao chức năng của gan được tăng cường điều này rất có lợi cho việc tiêu hoá thức ăn. Khi vận động sự tiêu hao nguồn năng lượng dự trữ tăng lên, khiến cho gan phải hoạt động tích cực hơn từ đó mà chức năng gan được tập luyện thường xuyên và phát triển. Lượng đường đơn trong gan của vận động viên và người thường và tốc độ đẩy đường đơn ra ngoài của gan ở vận động viên cũng nhanh hơn người thường. Đường đơn ở gan là hết sức quan trọng đối với sự khoẻ mạnh của gan, nó có thể bảo vệ cho gan, vì nguyên nhân này mà các bác sĩ thường yêu cầu những bệnh nhân gan ăn nhiều hoa quả có đường. Chức năng gan ở vận động viên là rất tốt, khả năng đề kháng với bệnh gan cũng rất cao. Ở người thường xuyên tập luyện thể dục thể thao thì việc sử dụng đường đơn trong gan cũng kinh tế hơn ở người thường. Từ những yếu tố trên có thể thấy tập luyện thể dục thể thao có thể làm tăng thêm sức khoẻ cho gan, mà gan có khoẻ thì mới có thể nâng cao được năng lực lao động và vận động. I.5. Ảnh hưởng của thể dục thể thao đối với hệ thống thần kinh: Hệ thống thần kinh khống chế các loại hành vi của con người, thường xuyên tập luyện thể dục thể thao sẽ làm nâng cao năng lực làm việc của các tế bào thần kinh ở đại não, nâng cao tính linh hoạt và sự hưng phấn của hệ thống thần kinh, phản ứng nhanh, tăng thêm tốc độ linh hoạt và sự chuẩn xác nhịp nhàng của động tác. Hệ thống thần kinh là do hệ thống trung khu và hệ thống thần kinh ngoại biên tạo thành. Hình thức hoạt động của chúng như sau: Sau khi cơ thể tiếp nhận được tín hiệu kích thích thông qua các nơ ron thần kinh để dẫn truyền đến hệ thống trung khu thần kinh, sau khi hệ thống trung khu thần kinh phân tích, tổng hợp thì các xung động hưng phấn sẽ được dẫn truyền tới các cơ quan từ đó tạo ra các phản ứng tương ứng. 15
  6. Ví dụ: Khi tham gia thi đấu bóng rổ, trong tình huống thiên biến vạn hoá của thi đấu trên sân đòi hỏi hoàn thành động tác kịp thời và chuẩn xác. Ở người bình thường tốc độ phản ứng là 0,4 giây trở lên, ở vận động viên là 0,332 giây, đối với các vận động viên bóng bàn tốc độ phản ứng đạt tới 0,1 giây. Những vấn đề này đều đem lại những lợi ích cho công việc hay những hoạt động sinh hoạt đời thường. Ngoài ra thường xuyên tập luyện thể dục thể thao còn có thể phòng ngừa được bệnh suy nhược thần kinh. Vận động còn đảm bảo cho việc giữ cân bằng giữa hưng phấn và ức chế của đại não, từ đó phòng ngừa được sự phát sinh suy nhược thần kinh. Thường xuyên tập luyện thể dục thể thao có thể làm cho sự hưng phấn được tăng cường, ức chế càng thêm sâu sắc hoặc làm cho hưng phấn và ức chế được tập trung, như vậy đã nâng cao được tính linh hoạt của quá trình thần kinh. Khi tập luyện thể dục thể thao do trung khu vận động hưng phấn cao độ làm cho ngoại vi sản sinh sự ức chế sâu sắc, điều đó khiến cho các tế bào thần kinh được nghỉ ngơi tốt. Tập luyện thể dục thể thao thường yêu cầu phải hoàn thành những động tác phức tạp, có độ khó cao hơn so với các hoạt động thường ngày, vì vậy mà cơ thể bắt buộc phải động viên chức năng của bản thân đến mức cao độ mới có thể thích nghi được với các yêu cầu của nhiệm vụ. Thông qua tập luyện thời gian dài, không chỉ cơ bắp phát triển, do động tác có lực, mà tốc độ, tính mềm dẻo, sự linh hoạt của động tác cũng được tăng cường, đối với thể lực lao động thì sức bền bỉ cũng được nâng lên, khả năng phòng bệnh và khả năng thích nghi với các loại kích thích bên ngoài môi trường cũng được nâng lên. Bởi lẽ vận động có tác dụng rất tốt đối với hệ thống thần kinh nên phần lớn các bác sĩ thường lấy tập luyện thể dục thể thao để làm thành một phương pháp trị liệu, đặc biệt là điều trị các trở ngại về chức năng của hệ thống thần kinh- nguyên nhân dẫn đến các bệnh thần kinh. Ở Mỹ một số chuyên gia về bệnh thần kinh đã mở một lớp gọi là “vận động dự phòng” cho một số người bị suy nhược thần kinh nhẹ, trong lớp này họ đã lấy chạy bộ thay cho việc dùng thuốc. Trải qua một tuần tập luyện thì đã có 60%- 85% bệnh nhân xuất hiện dấu hiệu hồi phục. II.Thúc tiến sự phát triển toàn diện năng lực cơ thể, tăng cường năng lực thích nghi của cơ thể. Mức độ mạnh yếu của năng lực cơ thể là một bộ phận, chỉ tiêu không thể thiếu trong việc đánh giá tình trạng sức khoẻ. Tập luyện thể dục thể thao vừa nâng cao trình độ của các cơ quan trong cơ thể, vừa nâng cao thể lực cơ thể, mặt khác còn có thể nâng cao năng lực thích nghi với hoàn cảnh môi trường và năng lực kháng bệnh. 16
  7. Năng lực cơ thể là năng lực mà các cơ quan trong cơ thể có thể gánh chịu được, nó bao gồm năng lực hoạt động cơ bản của cơ thể và các tố chất thể lực. Năng lực cơ thể mạnh yếu là tiêu chuẩn đánh giá hết sức quan trọng đối với thể chất con người. Năng lực cơ thể phát triển có mối quan hệ mật thiết đối với sự phát triển chức năng cơ thể, thường xuyên tập luyện thể dục thể thao có thể nâng cao các tố chất cơ thể như tốc độ, linh hoạt, sức bền, sức mạnh, mềm dẻo đồng thời trong sự ảnh hưởng của hệ thống trung khu thần kinh chức năng của các hệ thống cơ quan cũng được nâng lên. Đây chính là cơ sở cung cấp vật chất cho phát triển các tố chất. Năng lực hoạt động cơ bản của con người được phát triển cũng chính là tạo ra cơ sở phát triển kết cấu hình thái, chức năng sinh lý, các tố chất cơ thể. Thường xuyên tập luyện thể dục thể thao cùng với sự phát triển chức năng của các cơ quan tổ chức, các tố chất cơ thể, năng lực hoạt động cơ bản cũng được phát triển mạnh mẽ. Ví như người thường xuyên tập luyện bơi hay lao động thì tinh thần thoải mái, tinh lực dồi dào, còn không thường xuyên sẽ không được như vậy. Có thể nói tập luyện thể dục thể thao có tác dụng phát triển năng lực cơ thể. Năng lực thích ứng là chỉ năng lực, chức năng, biểu hiện của con người ở môi trường thế giới bên ngoài. Nó bao gồm sức thích nghi với hoàn cảnh thế giới bên ngoài và khả năng kháng lại bệnh tật. Tập luyện thể dục thể thao sẽ tăng cường được sức thích nghi với điều kiện hoàn cảnh thế giới bên ngoài và khả năng phòng chống bệnh tật. Nói như trên nghĩa là thường xuyên tập luyện thể dục thể thao khi gặp phải thời tiết lạnh giá đột ngột các lỗ chân lông sẽ nhanh chóng co lại, quá trình trao đổi chất diễn ra mạnh hơn để cung cấp nhiệt lượng cho cơ thể, ngược lại khi gặp thời tiết nóng các lỗ chân lông mở ra hệ thống giải nhiệt hoạt động mạnh mẽ hơn để giải nhiệt cho cơ thể biểu hiện ở mồ hôi toát ra nhiều. III.Thúc tiến phát triển năng lực của não, nâng cao hiệu suất học tập, công tác. Tập luyện thể dục thể thao ngoài việc phát triển thể lực và thể chất ra, nó còn phát triển năng lực của não, nâng cao hiệu suất công tác. Thường xuyên tập luyện thể dục thể thao có thể nâng cao năng lực làm việc của đại não, cải thiện quá trình thần kinh, từ đó tăng cường trí lực và khả năng ghi nhớ của cơ thể, đồng thời thông qua tập luyện thể dục thể thao cũng có thể điều tiết một cách có hiệu quả công tác và học tập, từ đó làm tăng hiệu suất công việc và học tập. Con người khi phát triển chịu sự ảnh hưởng của 3 yếu tố di truyền, hoàn cảnh sống và giáo dục. Các yếu tố di truyền của cơ thể như kết cấu, hình thái, cảm quan, hệ thống thần kinh là những điều kiện tiền đề của sự phát triển tự nhiên hay sinh lý 17
  8. của con người. Trong khi đó tri thức, tài năng, tính cách, sự yêu thích của con người được hình thành bởi sự ảnh hưởng của giáo dục và hoàn cảnh sống. Giáo dục ở đây đương nhiên trong đó bao gồm cả nội dung giáo dục thể chất. Thực tiễn đã chứng minh tập luyện thể dục thể thao đã có tác dụng thúc đẩy sự phát triển về mặt trí lực, nhận thức, tài năng của con người, đồng thời cũng có tác dụng nâng cao hiệu suất học tập. III.1. Rèn luyện thân thể có thể nâng cao năng lực hoạt động trí lực: Trí lực hiểu theo nghĩa thông thường là lấy năng lực tư duy làm hạt nhân, nó là sự tổng hoà của năng lực nhận thức, nó bao gồm năng lực quan sát, năng lực ghi nhớ, năng lực tưởng tượng Trí lực là sản vật của sự kết hợp giữa di truyền, sự ảnh hưởng của giáo dục, điều kiện sống và sự nỗ lực cá nhân. Thực tế đã chứng minh trình độ trí lực của con người có mối tương quan với di truyền (có người cho rằng có thể đạt tới 65%, thậm chí tới 80%), có mối tương quan mật thiết với hoàn cảnh xã hội, giáo dục, điều kiện gia đình, mặt bằng kinh tế Không thể xem nhẹ tác dụng của tập luyện thể dục thể thao đối với sự phát triển trí lực, đã có ngày càng nhiều các nhà nghiên cứu báo cáo về vấn đề này. Các kết quả nghiên cứu đã chứng minh, năng lực ghi nhớ và trí lực là một loại mang đặc tính vật chất hoá học, do một loại phân tử Prôtêin đa vật chất cấu thành, sự vận động của những vật chất này có liên quan đến trạng thái làm việc của đại não, càng thích nghi với điều kiện làm việc thì càng tốt, đại não bảo lưu các tin tức bên ngoài càng kiên cố, sự liên hệ giữa các tin tức đó càng rõ nét đối với sự phân biệt các tin tức càng rõ ràng mạch lạc. Những hiện tượng này bình thường chúng ta hay gọi là “mẫn cảm”. Sự thích nghi giữa một đại não tốt với điều kiện công tác được thể hiện ở hai mặt sau: - Cung cấp đầy đủ máu trong não. - Thích nghi với trạng thái hưng phấn. III.2. Tập luyện thể dục thể thao có thể nâng cao hiệu quả công tác và học tập. Học tập các tri thức văn hoá khoa học là những hoạt động thần kinh cao cấp của đại não. Trong quá trình học tập đòi hỏi đại não phải hoạt động tư duy căng thẳng cao độ và liên tục, những hoạt động dựa vào sự chuyển hoá tương hỗ không ngừng và sự cân bằng giữa hai chức năng hưng phấn và ức chế của tế bào thần kinh. Nếu làm việc trong thời gian quá dài các tổ chức não sẽ sản sinh ra tác dụng ức chế để bảo vệ, lúc này hiệu suất làm việc của não sẽ giảm xuống, biểu hiện ra ngoài 18
  9. đó là năng lực chú ý và tư duy kém, nặng hơn là chóng mặt, đau đầu khi này đòi hỏi phải nghỉ ngơi. Nghỉ ngơi có hai kiểu, đó là nghỉ ngơi tiêu cực (đi ngủ) và nghỉ ngơi tích cực (tập luyện thể dục thể thao). Khi tập luyện thể dục thể thao các tế bào thần kinh vận động sẽ được hưng phấn cao, mặt khác làm gia tăng thêm sự ức chế các tế bào ghi nhớ và tư duy từ đó làm cho sự mệt mỏi mất đi. Do vận động làm cho hệ tuần hoàn hoạt động tích cực dẫn đến các tế bào được cung cấp dinh dưỡng và Oxy đầy đủ hơn, làm thúc đẩy mạnh mẽ hơn việc đào thải sản phẩm thừa của quá trình trao đổi chất, điều này rất có lợi cho chức năng hồi phục của cơ thể. Tóm lại, tiến hành tập luyện thể dục thể thao một cách khoa học không những có tác dụng rèn luyện thể chất và thể lực cho cơ thể mà còn có tác dụng rất lớn đối với việc thúc tiến và nâng cao các hoạt động của não. Thường xuyên tập luyện thể dục thể thao có thể nâng cao chức năng của các cơ quan trong cơ thể, thức đẩy quá trình sinh trưởng và phát dục ở thanh thiếu niên, phát triển các tố chất cơ thể, nâng cao năng lực hoạt động cơ bản của con người BÀI 3: CÁC QUY LUẬT KHOA HỌC TRONG TẬP LUYỆN THỂ THAO Tập luyện thể dục thao không chỉ nâng cao sức khoẻ và năng lực cơ thể mà còn nâng cao những năng lực hoạt động cơ bản trong đời sống hằng ngày. Tuy nhiên việc lựa chọn nội dung, cường độ, phương pháp tập luyện không thích hợp sẽ có tác hại đối với sức khoẻ con người. Do vậy, chúng ta không thể nói tham gia tập luyện thể dục thể thao là nhất định sẽ có hiệu quả tốt trong việc nâng cao sức khoẻ. Tập luyện thể dục thể thao một cách khoa học có nghĩa là những nguyên tắc chuẩn bắt buộc người tham gia tập luyện phải tuân theo. Tập luyện cái gì, tập như thế nào, tập bao nhiêu đó là những vấn đề quan trọng đầu tiên của tập luyện thể dục thể thao khoa học. Nội dung chủ yếu của nó là sự điều chỉnh phối hợp cân bằng giữa cường độ vận động và lượng vận động. 1. Xếp sắp khối lượng vận động hợp lý. Lượng vận động là chỉ lượng phụ tải vận động, nó là một trong những nhân tố then chốt cho việc đảm bảo hiệu quả vận động, nó là cơ sở để nâng cao năng lực vận động, cơ thể con người thông thường mà nói phản ứng với lượng vận động thì không kịch liệt mà từ từ nhưng nó sản sinh những ảnh hưởng rất sâu sắc đối với các mức độ thích nghi của các hệ thống cơ quan, đồng thời sự thích ứng của cơ thể đối với lượng vận động là tương đối ổn định và sự giảm dần khả năng thích nghi đó diễn ra cũng rất chậm chạp. 19