Giáo trình Lý luận chung về nhà nước và pháp luật (Phần 2) - Trường Đại học Vinh

Kiểu pháp luật là hình thái pháp luật được xác định bởi tập hợp các dấu hiệu, đặc
trưng cơ bản của pháp luật thể hiện bản chất giai cấp, điều kiện tồn tại và phát triển của
pháp luật trong một hình thái kinh tế - xã hội nhất định.
Chủ nghĩa Mác - Lê Nin xem xét lịch sử xã hội như là một quá trình lịch sử tự
nhiên của sự thay thế một hình thái kinh tế - xã hội khác. Mỗi một hình thái kinh tế - xã
hội là một kiểu lịch sử của xã hội được thiết lập trên cơ sở của một phương thức sản xuất.
Pháp luật là một yếu tố thuộc kiến trúc thượng tầng. Bản chất, nội dung của pháp
luật suy cho cùng là do cơ sở kinh tế quyết định, vì vậy, để phân loại các kiểu pháp luật
đã tồn tại trong lịch sử cần dựa vào hai tiêu chuẩn:
Thứ nhất, pháp luật ấy ra đời và tồn tại trên cơ sở kinh tế nào? Do quan hệ sản
xuất nào quyết định?
Thứ hai, pháp luật thể hiện ý chí của giai cấp nào? Bảo vệ và củng cố quyền lợi
của giai cấp nào?
Là một bộ phận thuộc kiến trúc thượng tầng dựa trên cơ sở kinh tế của một xã hội
nhất định, vì thế tương ứng với các hình thái kinh tế - xã hội có giai cấp có các kiểu pháp
luật :
- Pháp luật Chủ nô.
- Pháp luật phong kiến.
- Pháp luật tư sản.
- Pháp luật xã hội chủ nghĩa.
Trong số các kiểu pháp luật đã và đang tồn tại trong lịch sử xã hội loài người, ba
kiểu pháp luật: chủ nô, phong kiến và tư sản tuy có những đặc trưng riêng biệt, song
chúng đều có đặc điểm chung là: đều thể hiện ý chí của thiểu số giai cấp bóc lột trong xã
hội; củng cố và bảo vệ chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất; bảo đảm về mặt pháp lý sự áp
bức, bóc lột của giai cấp thống trị đối với nhân dân lao động, duy trì tình trạng bất bình
đẳng trong xã hội.
Kiểu pháp luật xã hội chủ nghĩa đang trên con đường hình thành và phát triển,
từng bước xây dựng một chế độ sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất chủ yếu; thể hiện ý
chí của đa số nhân dân lao động ttrong xã hội; hạn chế dần và đi đến xoá bỏ bóc lột, xây
dựng một xã hội công bằng, bình đẳng, đảm bảo cho mọi công dân có cuộc sống ấm no,
hạnh phúc, tất cả vì giá trị của con người.
Sự thay thế các kiểu pháp luật là một tất yếu khách quan phù hợp với quy luật. Cơ
sở của sự thay thế đó là sự vận động và phát triển khách quan của các quy luật kinh tế -
xã hội, trong đó quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ của lực
lượng sản xuất có tính quyết định. Sự thay thế hình thái kinh tế - xã hội được thực hiện
thông qua một cuộc cách mạng xã hội đã làm thay thế kiểu nhà nước và pháp luật tương
ứng.
Sự thay thế một kiểu pháp luật này bằng một kiểu pháp luật khác tiến bộ hơn là
một quy luật tất yếu. Tuy nhiên các điều kiện, bối cảnh lịch sử khác nhau ở mỗi nước
cũng chi phối tới sự thay thế kiểu pháp luật. Vì vậy sự thay thế kiểu pháp luật ở mỗi quốc
gia diễn ra cũng rất khác nhau. Sự thay thế này cũng không nhất thiết phải diễn ra theo
trình tự: pháp luật chủ nô, pháp luật phong kiến, pháp luật tư sản, pháp luật xã hội chủ
nghĩa. Chẳng hạn ở Việt Nam không có kiểu pháp luật chủ nô, Hợp chủng quốc Hoa Kỳ
không có kiểu pháp luật phong kiến... Theo quy luật thì kiểu pháp luật sau bao giờ cũng
tiến bộ hơn kiểu pháp luật trước, bởi lẽ điều này phù hợp với quy luật thay thế các hình
thái kinh tế - xã hội, và vì thế kiểu pháp luật sau được xây dựng trên nền tảng của quan hệ
sản xuất tiến bộ hơn 
pdf 74 trang hoanghoa 09/11/2022 7600
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Giáo trình Lý luận chung về nhà nước và pháp luật (Phần 2) - Trường Đại học Vinh", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfgiao_trinh_ly_luan_chung_ve_nha_nuoc_va_phap_luat_phan_2_tru.pdf

Nội dung text: Giáo trình Lý luận chung về nhà nước và pháp luật (Phần 2) - Trường Đại học Vinh

  1. phản ánh bản chất của giai cấp tư sản, bởi lẽ nó là hình thức pháp lý tốt nhất cho chế độ cạnh tranh tự do mua và bán, tự do vốn rất phù hợp với lợi ích của nhà tư sản. Trong thời kỳ chủ nghĩa tư bản độc quyền và chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước, dưới sức ép của phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân buộc nhà nước tư sản phải có những nhượng bộ đưa ra các quy định từng bước thừa nhận các quyền về lao động của công nhân, kết quả cho ra đời ngành luật mới- ngành luật lao động với chế định cơ bản là hợp đồng lao động. Tuy nhiên, tính chất bình đẳng trong quan hệ hợp đồng lao động không thể đạt được khi công nhân phải đứng trước sự lựa chọn giữa việc có việc làm với các điều kiện không bảo đảm và việc không có việc làm, vì vậy họ buộc phải ký kết các hợp đồng lao đồng bất lợi cho mình. Hiện nay, cùng với sự can thiệp của nhà nước tư sản vào đời sống kinh tế, sự lũng đoạn của các tập đoàn tư bản độc quyền, vị trí của chế định hợp đồng với nguyên tắc tự do bị hạn chế rất nhiều. Các nhà tư sản vừa và nhỏ buộc phải ký kết hợp đồng theo sự áp đặt của các tập đoàn tư bản lớn, của nhà nước hoặc sẽ bị phá sản. Do đó, không có sự bình đẳng về ý chí của các bên trong quan hệ hợp đồng trên thực tế theo nghĩa vốn có của hợp đồng mà chỉ có sự tự do dưới hình thức pháp lý. 1.3 Địa vị pháp lý của công dân Địa vị pháp lý của công dân là một trong những chế định quan trọng mà các học giả tư sản sử dụng để phủ nhận tính giai cấp của pháp luật tư sản. Xét ở một góc độ chung nhất chế định địa vị pháp lý của công dân là chế định phản ánh sự tiến bộ hơn hẳn của pháp luật tư sản so với pháp luật chủ nô và pháp luật phong kiến. Lần đầu tiên các quyền tự do, dân chủ của công dân được ghi nhận rộng rãi trong pháp luật. Các nhà nước tư sản đều ghi nhận trong Hiến pháp các quyền tự do, bình đẳng, dân chủ của công dân. Đây là một thành tựu lớn mà giai cấp tư sản đã mang lại cho nhân loại. Tuy nhiên, dù tiến bộ và dân chủ rộng rãi nhiều lần so với chế độ phong kiến, các quyền tự do, dân chủ mà pháp luật tư sản quy định vẫn luôn mang bản chất giai cấp và thể hiện ý chí của giai cấp tư sản. Điều này được chứng minh thông qua việc ghi nhận các quyền tự do, dân chủ trong pháp luật qua các giai đoạn phát triển của nhà nước tư sản. Trong thời kỳ đầu, giai cấp tư sản chủ trương đề cao các quyền bình đẳng, tự do, dân chủ bởi vì đây là những đòn bẩy thúc đẩy, lôi kéo sự ủng hộ của nhân dân lao động chống lại sự thống trị phong kiến. Giai cấp tư sản ở giai đoạn này đã cùng với nhân dân lao động đấu tranh giành cho được các quyền tự do, dân chủ. Chuyển sang giai đoạn sau khi nhà nước tư sản đã được củng cố, chính giai cấp tư sản lại vi phạm các quyền tự do dân chủ: quyền biểu tình, bãi công, tự do nghiệp đoàn vì lo ngại các quyền này sẽ đe dọa đến lợi ích của giai cấp tư sản. Ngày nay các quyền tự do, dân chủ lại được giai cấp tư sản đề cao dưới sự tác động của nhiều nguyên nhân, giai cấp tư sản ở các nước dưới danh nghĩa “bảo vệ nhân quyền” để can thiệp vào các nước khác. Như vậy, các quyền tự do, dân chủ của cá nhân được pháp luật tư sản bảo đảm về mặt pháp lý. Song các bảo đảm thực tế cho việc thực hiện các quyền tự do, dân chủ này bị hạn chế. 89
  2. Tuy nhiên, khi đánh giá về bản chất của pháp luật tư sản chúng ta phải nhìn nhận pháp luật tư sản trong sự phát triển cụ thể. Từ chỗ là công cụ chủ yếu phục vụ lợi ích của giai cấp tư sản, pháp luật tư sản dần dần trở thành một công cụ điều tiết có hiệu quả của toàn xã hội. Điều này phản ánh thực tế là chức năng xã hội của pháp luật đã có bước phát triển đáng kể. Thể hiện, trước tiên pháp luật tư sản đóng vai trò quan trọng trong việc điều tiết các quan hệ xã hội, thiết lập một “trật tự xã hội” để bảo đảm cho sự phát triển của xã hội. Mặt khác, chức năng xã hội của pháp luật tư sản còn biểu hiện ở chỗ phạm vi các quan hệ xã hội mà pháp luật tư sản điều chỉnh ngày càng được mở rộng. Hầu hết các lĩnh vực quan trọng của xã hội đều được pháp luật tư sản tác động đến một cách hiệu quả. Ngày nay pháp luật tư sản còn mang tính toàn cầu hoá, đặc biệt là trong lĩnh vực thương mại quốc tế. Trong thực tiễn nhiều chế định pháp luật quốc tế quan trọng đã được hình thành dưới sự tác động của pháp luật tư sản. 2. HÌNH THỨC VÀ HỆ THỐNG PHÁP LUẬT TƯ SẢN 2.1.Hình thức pháp luật tư sản Hình thức của pháp luật tư sản bao gồm văn bản quy phạm pháp luật, tiền lệ pháp, tập quán pháp và ở một số ít các nước hồi giáo là luật tôn giáo. Văn bản quy phạm pháp luật là hình thức phổ biến nhất của pháp luật tư sản, văn bản quy phạm pháp luật của pháp luật tư sản phát triển và hoàn thiện rất nhiều về nội dung và hình thức so với pháp luật phong kiến và pháp luật chủ nô. Trong hệ thống văn bản quy phạm pháp luật của pháp luật tư sản, hiến pháp là đạo luật cơ bản, đạo luật gốc, có hiệu lực pháp lý cao nhất. Hiến pháp tư sản xuất hiện sau khi nhà nước tư sản ra đời. Sự ra đời của hiến pháp tư sản đánh dấu một bước tiến quan trọng của nền văn minh nhân loại nói chung và lịch sử phát triển của pháp luật nói riêng. Với quan niệm hiến pháp chỉ là “văn bản phản ánh tổ chức chính trị của quốc gia” nên hiến pháp tư sản đầu tiên thường chỉ quy định những vấn đề liên quan tới quyền lực nhà nước, mà ít quan tâm đến chế độ kinh tế, văn hoá - xã hội, quyền công dân như hiến pháp xã hội chủ nghĩa. Sau hiến pháp thì luật là loại văn bản quy phạm pháp luật được sử dụng rộng rãi trong pháp luật tư sản. Luật là văn bản do nghị viện tư sản ban hành. Các nước tư sản rất chú trọng tới công tác hệ thống hoá đặc biệt là công tác pháp điển hoá vì vậy phần lớn các lĩnh vực quan hệ xã hội đều có các bộ luật điều chỉnh. Thực tiễn pháp luật trong các nước tư sản cho thấy các nước có các tổng tập luật lệ, bộ luật có độ chính xác và khoa học cao. Sắc lệnh, nghị định là những văn bản dưới luật được sử dụng phổ biến trong hệ thống pháp luật tư sản, đặcbiệt ở các nước theo chính thể cộng hoà tổng thống như Hợp chủng quốc Hoa kỳ, Philípin, Mê xi cô Tiền lệ pháp là hình thức pháp luật được áp dụng chủ yếu ở các nước thuộc hệ thống Ăng lô- Xắc xông, gồm các nước Anh, Mỹ và một số nước nằm trong hệ thống thuộc địa của Anh trước đây. Tiền lệ pháp là quyết định trước đây của toà án hoặc cơ quan hành chính được sử dụng làm khuôn mẫu để giải quyết các vụ việc tương tự xảy ra sau này. 90
  3. Tiền lệ pháp có đặc điểm là không ổn định, không xác định về mặt hình thức, đòi hỏi phải đối chiếu các tình tiết của vụ việc đang xem xét với tình tiết của vụ việc tương tự đã được giải quyết, từ đó có thể áp dụng hình phạt hoặc cách giải quyết đã có, vì vậy dễ dẫn tới tình trạng lạm quyền, tuỳ tiện trong việc áp dụng. Mặt khác, cũng cần phải thấy tính tích cực của tiền lệ pháp, vì quan hệ xã hội- đối tượng điều chỉnh của pháp luật luôn thay đổi. Do đó, trong bất kỳ hệ thống pháp luật nào cũng đều có những “khoảng trống” nhất định, việc áp dụng tiền lệ pháp sẽ khắc phục được tình trạng này. Tập quán pháp được áp dụng chủ yếu ở một số nước có chính thể quân chủ lập hiến, tuy nhiên vị trí của nó không đáng kể. Sự tồn tại của tập quán pháp chứng tỏ sự ảnh hưởng của pháp luật phong kiến đối với pháp luật tư sản. Tập quán pháp là những quy tắc xử sự phổ biến trong xã hội được nhà nước thừa nhận dù không ghi ở bất cứ văn bản quy phạm pháp luật nào. Tập quán pháp được nhà nước tư sản sử dụng trong một số lĩnh vực hạn chế và hiện đang mất dần ảnh hưởng. Luật tôn giáo hiện này chỉ được sử dụng ở một số nhà nước tư sản, vì đại đa số các nhà nước tư sản quan niệm vấn đề tôn giáo là quyền tự do cá nhân, do đó pháp luật không điều chỉnh. Hiện tại chỉ còn một số nước Hồi giáo và Ấn Độ trong cộng đồng người Hin Đu sử dụng các quy tắc tôn giáo để điều chỉnh các quan hệ xã hội. 2.2.Hệ thống pháp luật tư sản Mỗi nhà nước tư sản có một hệ thống pháp luật riêng với những đặc thù riêngvề hình thức và nội dung. Tuy nhiên, giữa các nước vẫn có những nét tương đồng nhất định. Căn cứ vào những nét tương đồng này có thể xếp pháp luật các nước tư sản vào các hệ thống pháp luật khác nhau, mà phổ biến là hai hệ thống: Ăng lô-xắc xông và La mã- Giéc manh (Châu Âu lục địa). Hệ thống pháp luật Ăng lô- xắc xông bao gồm pháp luật các nước Anh, Mỹ và các nước chịu ảnh hưởng của Anh, hệ thống pháp luật này có những đặc trưng sau: - Pháp luật không chia thành công pháp và tư pháp. - Phần lớn các quy phạm pháp luật và chế định pháp luật không hình thành bằng việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật mà hình thành chủ yếu thông qua hình thức án lệ. Như vậy, thẩm phán vừa là người xét xử, vừa là người sáng tạo ra pháp luật một cách gián tiếp. - Các nước trong hệ thống pháp luật này đều lấy dân luật Anh làm hình mẫu. Hệ thống pháp luật La mã- Giéc manh bao gồm pháp luật các nước Châu âu lục địa (Pháp, Đức, ý ) và một số nước Châu Mỹ la tinh (Braxin, Vênêzuêla ). Hệ thống pháp luật La mã- Giéc manh có những đặc trưng sau: - Pháp luật chịu ảnh hưởng sâu sắc của dân luật La mã cổ đại. - Hệ thống pháp luật này chia pháp luật ra thành công pháp và tư pháp. Công pháp bao gồm các ngành luật, các chế định pháp luật điều chỉnh các quan hệ về tổ chức và hoạt động của cơ quan nhà nước, những quan hệ liên quan tới việc bảo vệ lợi ích của từng cá nhân. Tư pháp bao gồm các ngành luật, các chế định pháp luật điều chỉnh các quan hệ liên quan tới việc bảo vệ lợi ích của từng cá nhân. 91
  4. Bên cạnh hai hệ thống pháp luật trên, còn có sự tồn tại của các hệ thống pháp luật khác, như pháp luật các nước Hồi giáo, hệ thống pháp luật Bắc âu, hệ thống pháp luật Ấn độ 3. PHÁP CHẾ TƯ SẢN Pháp chế tư sản là sự tuân thủ của công dân, của các tổ chức, cơ quan đối với pháp luật hiện hành. Pháp chế tư sản có hai yêu cầu: - Thứ nhất, hiến pháp phải có hiệu lực tối cao. Điều này đòi hỏi các văn bản quy phạm pháp luật khi ban hành phải phù hợp với hiến pháp, nếu nội dung của nó trái với hiến pháp sẽ bị vô hiệu. - Thứ hai, việc tuân thủ đầy đủ của công dân đối với pháp luật hiện hành. Xem xét pháp chế tư sản cho chúng ta thấy qua các giai đoạn phát triển khác nhau của nhà nước tư sản, pháp chế tư sản có những biểu hiện khác nhau. Trong giai đoạn đầu của nhà nước tư sản, nhà nước tư sản đang trong thời kỳ củng cố và hoàn thiện nên pháp luật tư sản là công cụ để giai cấp tư sản lôi cuốn nhân dân chống lại các tàn dư của chế độ phong kiến. Hơn nữa, trong giai đoạn này giai cấp tư sản đề cao khẩu hiệu bình đẳng, tự do nên việc chú trọng đến nguyên tắc pháp chế là tất yếu. Pháp chế là biểu hiện ở mức độ cao sự bình đẳng xét từ góc độ hiệu lực của pháp luật. Chuyển sang giai đoạn chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước, pháp chế tư sản có nguy cơ bị hạn chế. Nguyên nhân sâu xa là do cơ sở xã hội của pháp luật bị thu hẹp, do sự đối lập giữa lợi ích của các tầng lớp khác trong xã hội càng trở nên gay gắt. Sự phá vỡ pháp chế tư sản diễn ra theo hai hướng. Hướng 1, nhà nước tư sản ban hành các đạo luật vi hiến. Ví dụ: Luật Lendran- Grifin ngày 14-9-1959, Luật Macaren ngày 23-9-1950, Luật giám sát hoạt động của Đảng cộng sản 1954 do Nhà nước Mỹ ban hành, Luật về quan hệ đối với các phần tử không hợp pháp trong bộ máy nhà nước (1972), Luật về kiểm duyệt bưu điện (1961) của Cộng hoà Liên bang Đức, Luật về quyền hạn khẩn cấp ở Anh ngày 2-4-1940 Các luật này thường nhằm chống lại các quyền tự do, dân chủ được coi là chế định cơ bản của Hiến pháp tư sản. Hướng 2, Nhà nước tư sản đàn áp các phong trào tiến bộ, thu hẹp cơ sở xã hội của công dân. Pháp chế tư sản bị hạn chế khá mạnh trong thập kỷ 50, 60 và 70 của thế kỷ 20. Nhưng trong giai đoạn hiện nay, cùng với sự tăng cường giá trị xã hội của pháp luật, do những biến đổi xã hộivà sự lớn mạnh về uy tín của các đảng cánh tả trong đời sống chính trị các nước tư sản làm cho pháp luật tư sản thể hiện đậm nét lợi ích của nhân dân lao động, vì thế pháp chế tư sản cũng có những bước phát triển cao hơn. Tuy nhiên, việc giai cấp tư sản mong muốn pháp luật của mình được thực hiện chưa phải là điều kiện đảm bảo pháp chế tư sản. Ngay cả trong giai đoạn hiện nay và tương lai bản thân các điều kiện nội tại trong xã hội tư sản không bảo đảm cho pháp chế tư sản không bảo đảm cho pháp chế tư sản khó mang tính triệt để. CÂU HỎI ÔN TẬP 1. Hãy phân tích bản chất của pháp luật tư sản. 2. Các hình thức của pháp luật tư sản? 3. Phân tích các đặc trưng của các hệ thống pháp luật tư sản. 92
  5. CHƯƠNG 14 BẢN CHẤT, VAI TRÒ VÀ CÁC NGUYÊN TẮC CƠ BẢN CỦA PHÁP LUẬT XÃ HỘI CHỦ NGHĨA 1. BẢN CHẤT CỦA PHÁP LUẬT XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Sau khi giành thắng lợi cách mạng, giai cấp công nhân và nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản đã nhanh chóng xây dựng nhà nước của mình. Cùng với việc xây dựng nhà nước, giai cấp công nhân và nhân dân lao động nhanh chóng xây dựng hệ thống pháp luật của giai cấp mình để điều chỉnh các quan hệ xã hội trong điều kiện mới, ổn định trật tự xã hội, xây dựng xã hội mới. Xét ở góc độ chung, cũng như các kiểu pháp luật khác, pháp luật xã hội chủ nghĩa vừa mang tính giai cấp vừa thể hiện tính xã hội. Tuy nhiên, do những điều kiện, kinh tế, chính trị, xã hội, văn hoá, hệ tư tưởng trong chủ nghĩa xã hội nên pháp luật xã hội chủ nghĩa có những đặc thù riêng, điều này làm cho bản chất của pháp luật xã hội chủ nghĩa khác hẳn với bản chất của các kiểu pháp luật trước đó. Bản chất của pháp luật xã hội chủ nghĩa được thể hiện ở những đặc điểm cơ bản sau: 1.Pháp luật xã hội chủ nghĩa là hệ thống quy tắc xử sự có tính thống nhất nội tại cao. Pháp luật là một hệ thống các quy phạm pháp luật do nhà nước ban hành hoặc thừa nhận. Nói đến pháp luật là nói đến tính hệ thống. Tính hệ thống của pháp luật nói lên sự đa dạng của các quy phạm pháp luật do nhà nước ban hành hoặc thừa nhận để điều chỉnh các quan hệ xã hội tương ứng trên các lĩnh vực xã hội. Tuy nhiên, pháp luật là một hệ thống bao gồm nhiều quy phạm pháp luật khác nhau, nhưng các quy phạm pháp luật đều thống nhất với nhau, bởi vì các quy phạm pháp luật này đều có chung một bản chất. Tính chất này của pháp luật xã hội chủ nghĩa cao hơn bất kỳ một kiểu pháp luật nào khác, bởi lẽ pháp luật xã hội chủ nghĩa được xây dựng trên cơ sở các quan hệ pháp luật - kinh tế xã hội chủ nghĩa mang tính thống nhất cao. Chính điều này quyết định tính thống nhất và xu hướng phát triển của pháp luật xã hội chủ nghĩa. 2. Pháp luật xã hội chủ nghĩa thể hiện ý chí của giai cấp công nhân và đông đảo nhân dân lao động. Đây là nét khác biệt căn bản giữa pháp luật xã hội chủ nghĩa với các kiểu pháp luật trước đó. Nếu các kiểu pháp luật trước đó đều có chung bản chất là thể hiện ý chí của thiểu số giai cấp bóc lột trong xã hội, là công cụ bảo vệ lợi ích của thiểu số ấy, thì trái lại pháp luật xã hội chủ nghĩa lại thể hiện ý chí của tuyệt đại đa số dân cư trong xã hội, đó là ý chí của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Pháp luật xã hội chủ nghĩa “là pháp luật thực sự dân chủ vì nó bảo vệ quyền tự do, dân chủ rộng rãi cho nhân dân lao động”1 . 3.Pháp luật xã hội chủ nghĩa do Nhà nước xã hội chủ nghĩa ban hành và bảo đảm thực hiện. Cũng giống như các kiểu pháp luật khác, pháp luật xã hội chủ nghĩa do nhà nước xã hội chủ nghĩa ban hành và bảo đảm thực hiện, vì vậy pháp luật xã hội chủ nghĩa là hệ thống các quy tắc xử sự có tính bắt buộc chung, được bảo đảm thực hiện bằng sức mạnh cưỡng chế của quyền lực nhà nước. Đặc điểm này phản ánh tính đặc thù của pháp luật, 1 Hồ Chí Minh, Nhà nước và Pháp luật, NXB Pháp lý, Hà nội 1985, tr 18. 93
  6. pháp luật bao giờ cũng thể hiện ý chí của nhà nước, hình thành bằng con đường nhà nước. Mọi quy tắc xử sự nếu không phải do nhà nước ban hành hoặc thừa nhận thì đó không phải là pháp luật. Trong xã hội để điều chỉnh các quan hệ xã hội có nhiều loại quy phạm xã hội, nhưng chiếm ưu thế nhất trong số các loại quy phạm xã hội là pháp luật. Vì pháp luật do nhà nước ban hành hoặc thừa nhận nên nó có phạm vi tác động rộng nhất, tới tất cả mọi người trong xã hội. Pháp luật được nhà nước bảo đảm thực hiện, vì vậy đối với các hành vi vi phạm pháp luật, tuỳ theo mức độ vi phạm nhà nước sẽ áp dụng các biện pháp cưỡng chế cần thiết để pháp luật được thực thi nghiêm minh. 4. Pháp luật xã hội chủ nghĩa có quan hệ chặt chẽ với chế độ kinh tế xã hội chủ nghĩa. Trong mối quan hệ này, chế độ kinh tế giữ vai trò quyết định đối với pháp luật. Pháp luật luôn phản ánh trình độ phát triển của chế độ kinh tế xã hội chủ nghĩa. Mọi sự thay đổi lớn hay nhỏ của chế độ kinh tế xã hội chủ nghĩa đều dẫn đến sự thay đổi tương ứng của pháp luật. Mặt khác, pháp luật với những thuộc tính của mình sẽ có sự tác động trở lại một cách mạnh mẽ đối với chế độ kinh tế xã hội chủ nghĩa. Sự tác động này được thể hiện: nếu pháp luật xã hội chủ nghĩa phù hợp với chế độ kinh tế xã hội chủ nghĩa, phản ánh đúng các điều kiện tồn tại của chế độ kinh tế xã hội chủ nghĩa nó sẽ góp phần thúc đẩy sự phát triển của chế độ kinh tế xã hội chủ nghĩa, ngược lại nếu pháp luật phản ánh không đúng các quan hệ kinh tế đang tồn tại của chế độ kinh tế xã hội chủ nghĩa nó sẽ kìm hãm sự phát triển của chế độ kinh tế xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, việc xác định đúng tính chất, đặc điểm, trình độ phát triển của nền kinh tế, dự báo đúng hướng phát triển của các quan hệ kinh tế để xây dựng một hệ thống pháp luật đồng bộ, phù hợp là vấn đề có ý nghĩa quan trọng. 5. Pháp luật xã hội chủ nghĩa có quan hệ mật thiết với đường lối, chủ trương chính sách của đảng cộng sản. Trong chế độ xã hội chủ nghĩa, đảng cộng sản giữ vai trò lãnh đạo đối với nhà nước và xã hội. Để thực hiện được vai trò lãnh đạo đảng sử dụng phương pháp chủ yếu là đề ra đường lối, chủ trương, chính sách chỉ đạo cho phương hướng xây dựng pháp luật, chỉ đạo nội dung pháp luật và chỉ đạo việc tổ chức thực hiện và áp dụng pháp luật. Pháp luật luôn phản ánh đường lối, chính sách của đảng, là sự thể chế hoá đường lối, chính sách của đảng thành các quy định chung thống nhất trên quy mô toàn xã hội. Mặt khác, thông qua pháp luật đảng kiểm tra, đánh giá tính đúng đắn hợp lý trong đường lối, chủ trương, chính sách mà đảng đã ban hành, từ đó rút kinh nghiệm, sửa đổi, bổ sung ban hành kịp thời những chủ trương, chính sách phù hợp bới thực tế xã hội. 6. Pháp luật xã hội chủ nghĩa có quan hệ chặt chẽ với các quy phạm xã hội khác trong chủ nghĩa xã hội. Pháp luật xã hội chủ nghĩa với những đặc điểm thể hện bản chất như đã nêu ở trên, luôn có quan hệ chặt chẽ với các quy phạm xã hội khác như quy phạm đạo đức, tập quán, quy tắc xử sự của các tổ chức xã hội và đoàn thể quần chúng Trong thực tiễn có nhiều quy phạm pháp luật có nội dung là quy phạm đạo đức, tập quán, những phong tục, truyền thống tốt đẹp của xã hội được phản ánh vào trong pháp luật, ảnh hưởng nhất định tới việc xây dựng, thực hiện và bảo vệ pháp luật. Để phát huy vai trò của pháp luật thì cần thiết phải xem xét mối quan hệ giữa pháp luật với các quy phạm xã hội khác, phát huy tính 94
  7. tích cực của các quy phạm xã hội và loại bỏ dần những quy phạm xã hội tiêu cực, có nội dung trái với bản chất của pháp luật xã hội chủ nghĩa. Từ những phân tích trên có thể đi đến một định nghĩa về pháp luật xã hội chủ nghĩa: Pháp luật xã hội chủ nghĩa là hệ thống các quy tắc xử sự, thể hiện ý chí của giai cấp công nhân, dưới sự lãnh đạo của đảng cộng sản do nhà nước xã hội chủ nghĩa ban hành và bảo đảm thực hiện bằng sức mạnh cưỡng chế của nhà nước, là nhân tố điều chỉnh các quan hệ xã hội. 2. VAI TRÒ CỦA PHÁP LUẬT XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Trong đời sống xã hội, pháp luật xã hội chủ nghĩa giữ vai trò rất quan trọng, xét dưới góc độ chung nhất, pháp luật là phương tiện để thể chế hoá đường lối, chính sách của đảng, đảm bảo cho sự lãnh đạo của đảng được thực hiện trên quy mô toàn xã hội; là phương tiện để nhà nước quản lý mọi mặt xã hội; là phương tiện để nhân dân phát huy dân chủ và quyền làm chủ, thực hiện quyền và nghĩa vu. Pháp luật là nhân tố điều chỉnh các quan hệ xã hội, nó luôn tác động và ảnh hưởng mạnh mẽ tới các quan hệ xã hội nói chung cũng như các yếu tố thuộc thượng tầng chính trị pháp lý nói riêng. Tuy nhiên, tuỳ từng lĩnh vực quan hệ xã hội cụ thể quy định mức độ và phạm vi điều chỉnh của pháp luật. Những điểm nói trên mới chỉ phản ánh vai trò của pháp luật ở bình diện chung, để thấy rõ vai trò của pháp luật cần phải xem xét ở góc độ cụ thể gắn với chức năng của nhà nước xã hội chủ nghĩa và nhu cầu điều chỉnh bằng pháp luật các quan hệ xã hội. Trong mối quan hệ này có thể nhận thấy vai trò của pháp luật xã hội chủ nghĩa thể hiện trên những mặt sau: 1. Pháp luật là cơ sở để xây dựng và hoàn thiện bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa. Bộ máy nhà nước là một thiết chế phức tạp bao gồm nhiều bộ phận, để bộ máy hoạt động có hiệu quả đòi hỏi phải xác định đúng chức năng, thẩm quyền, trách nhiệm của mỗi loại cơ quan, xác lập mối quan hệ đúng đắn và hợp lý giữa các cơ quan; phải có phương pháp và hình thức tổ chức và hoạt động phù hợp để tạo thành một cơ chế đồng bộ thực hiện quyền lực nhà nước. Tất cả những điều đó chỉ có thể thực hiện được khi dựa trên cơ sở vững chắc của những nguyên tắc và quy định cụ thể của pháp luật. Thực tiễn của Việt Nam cho thấy khi chưa có một hệ thống các quy phạm pháp luật đầy đủ, đồng bộ, phù hợp, chính xác làm cơ sở cho việc củng cố và hoàn thiện bộ máy nhà nước, điều này dễ dẫn đến tình trạng bộ máy nhà nước trùng lặp, chồng chéo, cồng kềnh và kém hiệu lực. Nhận định điều này Nghị quyết đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 8 và Nghị quyết hội nghị lần thứ 3 Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá 8 nhấn mạnh: ”ưu tiên xây dựng các luật về điều chỉnh công cuộc cải cách bộ máy nhà nước ”. 2. Pháp luật bảo đảm cho việc thực hiện có hiệu quả chức năng tổ chức và quản lý kinh tế, xây dựng cơ sở vật chất của chủ nghĩa xã hội. Một trong những chức năng cơ bản của nhà nước xã hội chủ nghĩa là chức năng kinh tế. Chức năng tổ chức và quản lý kinh tế có phạm vi rộng và phức tạp bao gồm nhiều mối quan hệ, nhiều vấn đề mà nhà nước cần phải xác lập và giải quyết như: hoạch định các chính sách kinh tế, xác định chỉ tiêu kế hoạch, quy định chế độ tài chính giá cả 95