Giáo trình Luật so sánh (Phần 2) - Trường Đại học Vinh

Dòng họ pháp luật có cội nguồn từ hệ thống pháp luật Anh – quốc gia ở châu
Âu nhưng dòng họ pháp luật này lại có một số điểm khác biệt căn bản với dòng họ
pháp luật civil law.
Thứ nhất, common law là dòng họ pháp luật trong đó hệ thống pháp luật trực
thuộc ít nhiều chịu ảnh hưởng của hệ thống pháp luật Anh và thừa nhận án lệ như
nguồn luật chính thống tức là thừa nhận học thuyết tiền lệ pháp. Học thuyết tiền lệ
pháp ở các hệ thống pháp luật này đều ít nhiều chi phối hệ thống tòa án lệ theo
hướng: các phán quyết đã tuyên của tòa án cấp trên nói chung có giá trị ràng buộc
tòa án cấp dưới trong quá trình xét xử chung có giá trị ràng buộc tòa án cấp dưới
trong quá trình xét xử các vụ hiện tại. Học thuyết này được triển khai áp dụng trên
thực tế thông qua việc xuất bản các phán quyết của tòa án có giá trị ràng buộc để
tạo điều kiện thuận lợi và tạo nguồn tài liệu có hệ thống và đáng tin cậy cho việc áp
dụng thống nhất tiền lệ pháp tại các tòa án trên toàn quốc trong công tác xét xử.
Thứ hai, thẩm phán trong các hệ thống pháp luật thuộc dòng họ common law
đóng vai trò quan trọng trong việc sáng tạo và phát triển các quy phạm pháp luật.
Nghiên cứu hệ thống pháp luật Anh, cội nguồn của dòng họ common law có thể
thấy: pháp luật Anh không được pháp điển hóa như pháp luật của các nước thuộc
dòng họ civil law; nước Anh không có những bộ luật chứa đựng toàn bộ những quy
phạm pháp luật điều chỉnh lĩnh vực quan hệ xã hội đặc thù nào đó.
Thứ ba, nhìn chung các hệ thống pháp luật thuộc họ common law không có
sự phân biệt giữa luật công và luật tư như trong dòng họ civil law, trừ hệ thống
pháp luật Anh. Tuy nhiên, sự phân biệt giữa luật công và luật tư ở Anh không có
cùng mục đích như ở các nước thuộc dòng họ civil law.
Thứ tư, chế định pháp luật tiêu biểu của các hệ thống luật dòng họ common
law là chế định ủy thác – chế định đặc thù của hệ thống pháp luật Anh, ra đời do
hoàn cảnh lịch sử riêng có của nước Anh.
Thứ năm, sau khi hình thành ở Anh quốc, common law đã lan sang khắp các
châu lục từ châu Phi, châu Mỹ đến châu Úc, châu Á và làm thành dòng họ common
law, một trong hai dòng họ pháp luật lớn nhất thế giới. Sự bành trướng của
common law của Anh diễn ra trong suốt quá trình Hoàng gia Anh thực hiện chính
sách thuộc địa hóa. 
pdf 28 trang hoanghoa 09/11/2022 6820
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Giáo trình Luật so sánh (Phần 2) - Trường Đại học Vinh", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfgiao_trinh_luat_so_sanh_phan_2_truong_dai_hoc_vinh.pdf

Nội dung text: Giáo trình Luật so sánh (Phần 2) - Trường Đại học Vinh

  1. * Tòa án kinh lí phúc thẩm liên bang Tòa án kinh lí phúc thẩm liên bang ra đời từ năm 1891 nhằm giúp các đương sự trong một vụ kiện có thể tối thiểu có một cơ hội để được xét xử phúc thẩm đối với những bản án bất lợi cho mình do tòa án cấp dưới phán quyết và để giảm bớt gánh nặng cho Tòa án tối cao liên bang trong lĩnh vực xét xử phúc thẩm đối vơi những vụ việc loại này. * Tòa án tối cao liên bang Khác với hệ thống tòa án tối cao của Anh, nơi cái được cọi là Tòa án tối cao thực chất lại không phải là tòa án tối cao nhất trong hệ thống Tòa án. Ở Mỹ, Tòa án tối cao liên bang là cấp xét xử cao nhất trong hệ thống tòa án liên bang và là loại tòa án thực sự có quyền lực. Tòa án tối cao có quyền tùy ý với một vài ngoại lệ. Tòa chỉ xét xử những vụ việc mà Tòa muốn xử. Chức năng của Tòa án tối cao khá phức tạp vì ngoài chức năng xét xử của cấp phúc thẩm cuối cùng trong hệ thống tòa án Mỹ, Tòa án còn có quyền xem xét tính hợp hiến của các văn bản pháp luật và các hành vi của Chính phủ. Cấp xét xử phúc thẩm cao nhất trong hệ thống tòa án của Anh không có chức năng này. Đây là quyền năng quan trọng nhằm bảo vệ con người Mỹ vì quyền năng này nhằm bảo vệ ý nguyện của toàn thể nhân dân Mỹ. * Hệ thống tòa án bang Mỗi bang ở Mỹ đều có hệ thống tòa án riêng với cơ cấu tổ chức có thể không giống nhau. Thông thường, các bang tổ chức hệ thống tòa án tương tự mô hình của hệ thống tòa án liên bang gồm ba cấp: cấp sơ thẩm, cấp phúc thẩm và cấp tối cao. 3.3. Nguồn luật - Án lệ Án lệ ở Mỹ được coi như một phương pháp, cách thức giải thích luật. Ở giai đoạn đầu, Mỹ cũng tương tự như Anh, đã phân chia pháp luật thành án lệ và luật công bằng. Á lệ ở Mỹ khác với án lệ ở Anh, mặc dù hệ thống pháp luật của hai quốc gia này đều có chung nguồn gốc lịch sử và đều thuộc dòng họ common law. - Luật thành văn + Hiến pháp 47
  2. Trái với Anh quốc, nước Mỹ có hiến pháp thành văn: liên bang và các bang đều có hiến pháp viết. Một vài khác biệt điển hình tiếp theo giữa hiến pháp Mỹ và hiến pháp của Anh là việc thừa nhận quyền con người và nguyên tắc giám sát bằng thủ tục tư pháp đối với tình hợp hiến của các văn bản pháp luật. + Luật Ở Mỹ có rất nhiều đạo luật ở cả cấp liên bang và cấp bang. Hiến pháp Mỹ quy định, luật Liên bang có giá trị pháp lí cao hơn luật của các bang. Án lệ của Mỹ quy định các đạo luật Liên bang có hiệu lực cao hơn phán quyết của tòa mặc dù nội dung, ý nghĩa của các đạo luật do chính tòa giải thích. Câu hỏi: 1. Những đặc điểm cơ bản của dòng họ common law. 2. Phân biệt giữa pháp luật Anh với Pháp luật La Mã. 3. Trình bày các loại nguồn của dòng họ pháp luật common law 4. Trình bày cấu trúc hệ thống tòa án nước Anh 5. Trình bày cấu trúc hệ thống tòa án nước Mỹ 48
  3. CHƯƠNG 4 DÒNG HỌ PHÁP LUẬT XÃ HỘI CHỦ NGHĨA 1. PHÁP LUẬT TRUYỀN THỐNG Ở CÁC NƯỚC XHCN 1.1. Pháp luật truyền thống của nước Nga trước Cách mạng tháng Mười - Giai đoạn 1 – trước khi quân Nguyên – Mông đô hộ nước Nga (trước năm 1236) - Giai đoạn 2 – dưới thời đô hộ của quân Nguyên – Mông (từ 1236 đến 1480) - Giai đoạn thứ ba (từ năm 1480 đến 1869) - Giai đoạn thứ 4 – từ khi Pie đại đế lên ngôi (từ 1869 đến Cách mạng tháng 10) 1.2. Pháp luật truyền thống của các nước XHCN khác ở Đông Âu Nhóm thứ nhất bao gồm các nước Ba Lan, Tiệp Khắc, Hungari, Croatia, Lovenia. Những nước này có hệ thống pháp luật phát triển song hành với pháp luật Đức, Áo, Pháp. Những điều kiện tác động lên pháp luật của những nước này cũng giống như các nước Tây Âu. Họ có truyền thống pháp luật vững bền. Pháp luật được xem xét như một trong những nền tang xã hội. Nhóm thứ hai bao gồm các nước vùng Bancan như Albania, Bungary, Rumani, Serby. Cũng như nước Nga, những nước ngày đều chịu ảnh hưởng của Byzantin. 1.3. Pháp luật truyền thống của các nước XHCN Châu Á Bao gồm các nước như Trung Quốc, Việt Nam, Cộng hòa nhân dân Triều Tiên về cơ bản có những đặc điểm chung giống nhau. Đó là sự ảnh hưởng của Khổng giáo và quan niệm chung về pháp luật nặng nề pháp luật hình sự và hành chính, nhẹ về pháp luật dân sự. 2. SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA DÒNG HỌ PHÁP LUẬT XHCN Dòng họ pháp luật xã hội chủ nghĩa ra đời năm 1917 cùng với sự ra đời của nhà nước Xô viết Nga – nhà nước chuyên chính vô sản đầu tiên trên thế giới. Cho đến nay, dòng họ pháp luật XHCN đã trải qua 3 giai đoạn phát triển: 49
  4. - Giai đoạn 1: Từ năm 1917 đến 1945. - Giai đoạn 2: Từ năm 1945 đến 1991. - Giai đoạn 3: Từ năm 1991 đến nay. 2.1. Giai đoạn từ năm 1917 đến 1945 Đây là giai đoạn bắt đầu từ khi thành lập nhà nước Xô viết đến kết thúc đại chiến thế giới lần thứ 2. Giai đoạn này được chia thành 4 thời kỳ: Từ năm 1917 – 1921 Hiến pháp đầu tiên được ban hành trong giai đoạn này là Hiến pháp Nga năm 1918. Hiến pháp năm 1918 là cơ sở pháp lý để thiết lập nền chuyên chính vô sản, thiết lập chế độ dân chủ cho giai cấp công nhân, nông dân và binh sĩ, trấn áp địa chủ và tư sản. Hiến pháp 1918 đã thiết lập chế độ công hữu về tư liệu sản xuất dưới hai hình thức là sở hữu nhà nước và sở hữu tập thể. Hiến pháp năm 1918 của nước Nga Xô viết nhanh chóng trở thành mô hình mẫu cho hiến pháp các nước cộng hoà Xô viết: Hiến pháp Cộng hoà Xô viết Latvia 1919, Hiến pháp của Cộng hoà Xô viết Ukrain 1919 Từ năm 1922 – 1928 Đây là thời kỳ thành lập Liên bang Cộng hoà XHCN Xô viết và là thời kỳ chính sách kinh tế mới. Năm 1924 Hiến pháp đầu tiên của Liên Xô được ban hành. Sau khi Hiến pháp Liên Xô ban hành, các nước là thành viên của Liên Xô cũng lần lượt ban hành Hiến pháp vào những năm tiếp sau đó trên cơ sở phù hợp với Hiến pháp của Liên bang. Giai đoạn từ năm 1922 đến 1928 cũng là giai đoạn Liên Xô xây dựng được nhiều bộ luật như Bộ luật dân sự ( 1922), Bộ luật tố tụng dân sự ( 1923), Bộ luật lao động (1922), Bộ luật Hôn nhân và gia đình (1926) Từ năm 1928 – 1940 Trong giai đoạn này, bản Hiến pháp thứ 2 của Liên Xô – Hiến pháp năm 1936 ra đời. Với bản Hiến pháp năm 1936 quyền bầu cử từ chỗ chưa hoàn toàn 50
  5. bình đẳng ( theo Hiến pháp năm 1924) trở thành hoàn toàn bình đẳng, từ chỗ bầu cử gián tiếp nhiều cấp trở thành bầu cử trực tiếp, từ chỗ bỏ phiếu công khai trở thành bỏ phiếu kín, từ chỗ bầu cử theo đơn vị sản xuất, công tác thành bầu cử theo nguyên tắc hành chính lãnh thổ. Xô viết từ chỗ là cơ quan đại diện của công nhân, nông dân, binh sĩ trở thành cơ quan đại diện của toàn thể nhân dân lao động. Từ năm 1941 – 1945. Hoạt động xây dựng nhà nước và pháp luật bị ngưng trệ do đất nước có chiến tranh. 2.2. Giai đoạn từ 1945 – 1991 Trong giai đoạn này Liên Xô đã ban hành một số bộ luật quan trọng ( Bộ luật hình sự 1960; Bộ luật dân sự 1961; Bộ luật lao động 1971 ). Trên cơ sở các Bộ luật của Liên Xô, các nước cộng hoà thành viên của Liên Xô đã ban hành các bộ luật của mình. Năm 1977 Liên Xô ban hành bản Hiến pháp thứ 3. So với các hiến pháp trước, đây là lần đầu tiên Hiến pháp tuyên bố Nhà nước Xô viết là nhà nước toàn dân. Cũng trong Hiến pháp 1977 lần đầu tiên vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản được thể chế hoá trong Điều 6: “Đảng cộng sản Liên Xô là hạt nhân của hệ thống chính trị, là lực lượng lãnh đạo nhà nước và xã hội Liên Xô”. Nói đến pháp luật XHCN giai đoạn từ năm 1945 – 1991 không thể không đề cập pháp luật Cộng hoà nhân dân Trung Hoa, bởi đây là quốc gia có dân số đứng đầu của thể giới. Năm 1949 nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa ra đời. Từ năm 1949 – 1954 Trung Quốc chưa có Hiến pháp. Mọi thể chế chính trị thiết lập theo cương lĩnh chung của Hội nghị hiệp thương chính trị theo mô hình nhà nước dân chủ nhân dân. Trong giai đoạn từ năm 1945 đến 1991 Trung Quốc đã ban hành các bản hiến pháp 1954, 1975, 1978, 1982. Các Hiến pháp 1954, 1975, 1978 là các Hiến pháp của cơ chế hành chính, quan liêu bao cấp và nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung. Hiến pháp 1982 là Hiến pháp của thời kỳ đổi mới, xây dựng nền kinh tế thị trường, kinh tế nhiều thành phần, tự do hoá thương mại. 51
  6. 2.3. Giai đoạn từ năm 1991 đến nay Giai đoạn này được đánh dấu bằng sự sụp đổ của chế độ XHCN ở Liên Xô và các nước Đông Âu. Phạm vi dòng họ pháp luật XHCN thu hẹp lại. Hiện nay dòng họ pháp luật XHCN chỉ còn tồn tại ở Trung Quốc, Việt Nam, Cộng hoà nhân dân Triều Tiên, Cu Ba và Lào. Đây là giai đoạn các nước XHCN còn lại thực hiện chính sách đổi mới, xoá bỏ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung và cơ chế hánh chính quan liêu, bao cấp, xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN, tăng cường yếu tố dân chủ và xây dựng nhà nước pháp quyền. 3. CÁC ĐẶC ĐIỂM CỦA DÒNG HỌ PHÁP LUẬT XHCN Dòng họ pháp luật XHCN có các đặc điểm cơ bản sau: Đây là hệ thống pháp luật gắn liền với hệ tư tưởng Mác – Lênin về nguồn gốc, bản chất, hình thức nhà nước và pháp luật, gắn liền với Cách mạng tháng Mười năm 1917 của nước Nga và sự ra đời, phát triển của nhà nước XHCN. So với các hệ thống pháp luật khác thì đây là hệ thống pháp luật ra đời muộn nhất. + Hệ thống pháp luật Hồi giáo ra đời từ thế kỷ VII. + Hệ thống pháp luật Anh – Mỹ ra đời từ thế kỷ X. + Hệ thống lục địa Châu Âu ra đời từ thế kỷ XIII. + Dòng họ pháp luật XHCN ra đời vào đầu thế kỷ XX. Hệ thống pháp luật này không phân chia thành công pháp và tư pháp. Dòng họ pháp luật XHCN cũng giống như hệ thống lục địa châu Âu, gắn liền với hệ thống tố tụng thẩm vấn. Đây là hệ thống pháp luật coi trọng pháp luật thành văn và không có truyền thống áp dụng án lệ. Dòng họ pháp luật XHCN bao gồm cả các nước Châu Âu, Châu Á và Châu Mỹ La tinh vì vậy các nước thuộc dòng họ pháp luật XHCN có truyền thống pháp luật rất khác nhau. 52
  7. Đường lối phát triển kinh tế ở các nước XHCN trước và trong thời kỳ đổi mới rất khác nhau, vì vậy pháp luật của các nước XHCN trước và trong thời kỳ đổi mới có nhiều đặc điểm khác nhau. 4. NGUỒN CỦA CÁC HỆ THỐNG PHÁP LUẬT THUỘC DÒNG HỌ PHÁP LUẬT XHCN Theo quan điểm nguồn luật dùng để chỉ nơi xuất phát những tư tưởng pháp luật còn hình thức pháp luật là nơi chứa đựng những tư tưởng pháp luật còn hình thức pháp luật là nơi chứa đựng các quy phạm pháp luật. Như vậy, đối với hệ thống pháp luật XHCN hình thức pháp luật hiện tại chỉ bao gồm văn bản quy phạm pháp luật và tập quán pháp luật. Tiền lệ pháp luật hầu như không được coi là hình thức pháp luật. Hình thức tiền lệ pháp chỉ được thừa nhận khi giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế. Tuy nhiên nguồn của pháp luật XHCN rộng hơn. Nó có thể bao gồm: đường lối, chủ trương, chính sach của Đảng cộng sản thể hiện trong các nghị quyết của đại hội Đảng cộng sản và Nghị quyết của Ban chấp hành Trung ương Đảng. 5. TÒA ÁN VÀ VIỆN KIỂM SÁT TRONG CÁC HỆ THỐNG PHÁP LUẬT THUỘC DÒNG HỌ PHÁP LUẬT XHCN 5.1. Tòa án Hệ thống tòa án ở các nước XHCN tuy không được tổ chức theo nguyên tắc tam quyền phân lập nhưng cũng kế thừa những hạt nhân hợp lí nhất trong tổ chức hệ thống tòa án tư sản. Đó là cơ quan tòa án xét xử công khai, độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, các cơ quan nhà nước không được can thiệp vào hoạt động xét xử của cơ quan tòa án. Các Tòa án thực hiện chế độ hai cấp xét xử. Trước Tòa án, mọi công dân đều bình đẳng, có quyền tự bào chữa và thuê luật sư bào chữa cho mình. Các cơ quan điều tra, truy tố, xét xử tách biệt. Đặc điểm chung của hệ thống tổ chức Tòa án ở các nước XHCn trước thời kỳ đổi mới là hệ thống thẩm phán và hội thẩm nhân dân do bầu cử thành lập ra. Hệ thống Tòa án ở Liên Xô có bốn cấp: Tòa án huyện, tòa án tỉnh, tòa án tối cao và Tòa tối cao của liên bang. Ở các nước XHCN Đông Âu và châu Á hệ thống tòa án thường chỉ có 3 cấp đó là: tòa cấp huyện, tòa cấp tỉnh và tòa tối cao. 53
  8. 5.2. Viện kiểm sát Viện kiểm sát là cơ quan hoàn toàn tự quản, được xây dựng theo nguyên tắc thứ bậc và độc lập với tất cả các bộ và các cơ quan chính quyền địa phương, hơn thế nữa viện kiểm sát còn giám sát hoạt động của cơ quan đó. Viện kiểm sát chỉ phục tùng người lãnh đạo duy nhất là việ trưởng viện kiểm sát. Câu hỏi 1. Những đặc điểm cơ bản của dòng họ pháp luật XHCN. 2. Sự phổ biến về mặt địa lý của pháp luật XHCN. 3. Trình bày nguồn của hệ thống pháp luật XHCN 4. Trình bày cấu trúc Tòa án và Viện kiểm sát trong hệ thống pháp luật thuộc hệ dòng họ pháp luật XHCN 5. Nêu cách thức đào tạo luật và hành nghề luật trong hệ thống pháp luật thuộc dòng họ pháp luật XHCN 54
  9. CHƯƠNG 5 DÒNG HỌ PHÁP LUẬT HỒI GIÁO 1. LUẬT HỒI GIÁO 1.1. Khái niệm, đặc điểm của luật Hồi giáo Luật hồi giáo không phải là hệ thống pháp luật gắn với nhà nước mà chỉ là một phần của Shariah. Luật hồi giáo giống như luật giáo hội của nhà thờ Thiên chúa giáo. Là hệ thống các quy định mang tính tôn giáo của những người theo đạo. Các quy định của luật Hồi giáo hoàn toàn độc lập, không chịu chi phố của nhà nước, không quyền lực nào có thể thay đổi luật Hồi giáo. Luật hồi giáo khác via Luật giáo hội ở chỗ luật giáo hội không phải là hệ thống pháp luật đầy đủ, luật giáo hội có nguồn gốc thần thánh, không phải do thượng đế đưa ra và luật giáo hội có thể bị thay đổi. Luật hồi giáo không phải là hệ thống các quy phạm pháp luật theo đúng nghĩa của thuật ngữ này. Luật hồi giáo xa lạ với cách tiếp nhận lịch sử coi pháp luật như hiện tượng được sinh ra và thay đổi để đáp ứng nhu cầu của đời sống xã hội. Luật hồi giáo được coi là do thượng đế đặt ra một lần và không thay đổi, xã hội cần phải tuân theo luật của thượng đế chứ không phải ngược lại. Luật hồi giáo thể hiện ý chí của thượng đế chứ không phải của nhà nước nên nó hướng tới điều chỉnh hầu hết các lĩnh vực của đời sống chứ không phải chỉ đề cập những vấn đề mà nhà nước quan tâm. - Đặc điểm của luật hồi giáo Có ý kiến cho rằng đặc điểm nổi bật nhất của luật hồi giáo là tính chất lỗi thời của nhiều chế định, tính vụn vặt và thiếu hệ thống hóa. Ngoài ra luật hồi giáo còn có các đặc điểm sau đây: Thứ nhất, khó có thể phân biệt giữa các quy định của pháp luật và các quy định tôn giáo, vì người Hồi giáo cho rằng pháp luật và tôn giáo chỉ là một. Luật hồi giáo can thiệp cả vào những vấn đề mà các hệ thống pháp luật khác xét thấy không cần điều chỉnh bằng pháp luật. Thứ hai, luật Hồi giáo có vai trò quan trọng trong việc điều chỉnh các lĩnh vực pháp luật truyền thống như hôn nhân – gia đình, thừa kế, hình sự. Còn trong 55
  10. các lĩnh vực pháp luật khác như hợp đồng, sở hữu thì sự ảnh hưởng của luật Hồi giáo có phần yếu hơn. Thứ ba, các quy định của đạo Hồi được xây dựng ở mức rất khái quát mà các tư tưởng phong kiến và tư tưởng hiện đại đều có thể tìm ra những lập luận ủng hộ trong đó tạo ra thuận lợi chow việc giải thích và áp dụng nó một cách mềm dẻo. 1.2. Sự hình thành và phát triển của luật Hồi giáo Luật hồi giáo như một phần của giới luật đạo Hồi, có mối liên hệ chặt chẽ với Hồi giáo và văn mình Hồi giáo nên sự hình thành và phát triển của luật Hồi giáo gắn với sự hình thành và phát triển của đạo Hồi. Có ý kiến nhận xét xác đáng rằng ở đâu người ta không dùng đến luật Hồi giáo, ở đó có đạo Hồi cũng không tồn tại 1.3. Nguồn của luật Hồi giáo - Kinh Koran Kinh Koran là cuốn kinh thánh của đạo Hồi được viết bằng tiếng Ả rập. Kinh Koran hình thành từ những gì mà Mohammed tuyên đọc hay đọc lại những lời của thượng đế thần khải qua ông khi thuyết giảng. Những lời tuyên đọc này được tập hợp lại thành sách hai năm sau khi ông chết. Kinh Koran gồm 14 chương, chia thành các tiết đoạn thơ. Các chương trong kinh Koran có độ dài không tương xứng với nhau. Có chương rất dài nhưng có chương lại rất ngắn. Vì chúng được Mohammed đọc ra lần dần dần trong quảng thời gian hơn 20 năm. Kinh Koran nêu ra rất nhiều luật lệ mà các tín đồ Hồi giáo phải một mực tuân thủ. Những luật lệ này bao trùm một phạm vi rất rộng, từ những quy tắc ứng xử cá nhân, quan hệ trong gia đình với láng giềng, với cộng đồng cho đến đời sống kinh tế, chính trị của quốc gia, từ hôn nhân, bố thí cho đến quan hệ với những người không theo đạo Hồi và trừng phạt tội lỗi. Những đoạn mang nội dung pháp lí trong kinh Koran giống như những quyết định Mohammed tuyên đọc với tư cách là quan tòa và thiên sứ thượng đế. Trong đó, Mohammed luôn vận dụng những tập quán phổ biến của các bộ tộc Ả Rập. 56
  11. - Sunna Sunna có nghĩa là con đường quen đi, là lối sống, cách hành xử trong cuộc đời của nhà tiên tri Mohammed. Sunna bao gồm những hành động cụ thể, những lời khyên dạy hoặc cấm đoán xuất phát trực tiếp từ Mohammed. Sunna là nguồn luật quan trọng của Islam sau kinh Koran. Sunna đưa ra các quy định mà trong kinh Koran không có. Chẳng hạn: kinh Koran cấm uống rượu nhưng lại không có quy định nào về hình phạt, điều này có thể tìm thấy trong sunna. Trong tố tụng tư pháp của các nước hồi giào, lời thề có tầm quan trọng rất lớn và điều này được quy định trong Sunna. - Jima Jima được sử dụng để giải thích các loại nguồn cơ bản. Thực chấp, nó là các quan điểm chung, các giải pháp pháp lí cho những tình huống mới do các học giả Hồi giáo đưa ra, trên cơ sở các nguyên tắc chung của nguồn luật cơ bản, được những người có thẩm quyền chấp nhận. Jima gần giống như tập quán nhưng không phải là tập quán. Nó không cần phải được sự chấp nhậ của mọi tín đồ hoặc cộng đồng mà chỉ cần được sự chấp thuận của những người có thẩm quyền. Khi những người có thẩm quyền nhất trí giải pháp pháp lí nào đó thì được coi là luật. - Qias Qias thực chất là phương pháp suy luận tương tự để giải thích luật. Bằng phương pháp này, các luật gia có thể “kết hợp ý chí của thần thánh với lí trí của con người” Qias được cộng đồng Hồi giáo tuân thủ nhờ dựa trên kinh Koran và Sunna. Việc suy luận theo sự việc tương tự chỉ được xem như phương thức giải thích và áp dụng pháp luật do luật Hồi giáo được xây dựng trên cơ sở các nguyên tắc uy tín. 1.4. Sự thích ứng của luật Hồi giáo với thế giới hiện đại Để cho luật Hồi giáo thích ứng với thế giới hiện đại, các luật gia Hồi giáo thường sử dụng các hình thức sau đây: - Áp dụng tập quán 57
  12. Theo luật Hồi giáo, tập quán không phải là nguồn luật nhưng các luật có thể áp dụng tập quán để lấp những chỗ trống trong luật Hồi giáo. Thông thường, đó là những tập quán liên quan đến cách tính giá trị hoặc cách thức thanh toán của hồi môn, việc sử dụng nguồn nước giữa hai chủ sở hữu đất, hoặc tập quán trong lĩnh vực thương mại. Tuy nhiên, tập quán đó phải phù hợp với luật Hồi giáo. - Sử dụng các thủ thuật pháp lí để loại bỏ các quy định đã lạc hậu - Áp dụng các văn bản pháp luật do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành (các quyết định hành chính, các văn bản pháp luật của các bộ, ) Theo đạo Hồi, nhà vua không phải là ông chủ của pháp luật mà là đầy tớ của pháp luật. Do đó, nhà vua không thể làm luật. Tuy nhiên, nhà vua phải quản kí đất nướn nên luật hồi giáo thừa nhận tính hợp pháp của các văn bản pháp luật do nhà vua và những người có thẩm quyền ban hành. 2. PHÁP LUẬT CỦA CÁC QUỐC GIA HỒI GIÁO 2.1. Khái quát pháp luật các quốc gia Hồi giáo Gần một trăm năm đã trôi qua kể từ khi đế quốc Ottoman đề chế Hồi giáo cuối cùng tan rã. Quãng thời gian đó đã mang lại nhiều thay đổi mạnh mẽ trong thế giới hồi giáo, điễn ra trên bình diện rộng, từ nên chính trị và các chính phủ cho đến cuộc sống riêng tư của các tín đồ. Các nước Hồi giáo ngày nay trên thế giới ngày nay có nhiều kiểu chính phủ khác nhau, có các vương quốc quân chủ, quân chủ lập hiến, chế độ cộng hòa, chế độ dân chủ và có cả các nền độc tài. Trong một số nước như Ả Rập Xê út và Iran, những luật lệ và tập quán Hồi giáo truyền thống được các chính phủ tuân thủ nghiêm ngặt. Sau chiến tranh thế giới thứ hai, một số quốc gia Ả Rập và một số quốc gia không nằm trong thế giới Ả Rập chính thức được gọi là các quốc gia Hồi giáo chiếm đại đa số trong dân cư là các nước A rập, Trung Á, Pakistan, Bangadesh, Thổ Nhĩ Kỳ, Do ảnh hưởng tư tưởng dân chủ tư sản và tư tưởng của các truyền thống pháp luật khác, từ thế kỷ XIX đến nay, ở nhiều quốc gia Hồi giáo xuất hiện ba xu hướng phát triển. 58
  13. + Phương tây hóa pháp luật + Pháp điển hóa pháp luật + Loại bỏ dần các quy định lạc hậu Pháp luật thực định của các nước Hồi giáo thể hiện các đặc trưng sau đây: + Pháp luật chịu ảnh hưởng của các nước phương tây, đặc biệt là của Anh và Pháp, những quốc gia đã từng thuộc địa hóa các nước Hồi giáo. + Pháp luật cho phép các công dân, nhất là công dân Hồi giáo khi đứng trước tranh chấp, lựa chon hoặc luật Hồi giáo hoặc luật thực định của quốc gia. Chính vì vậy, trong các nước Hồi giáo, bên cạnh tòa án nhà nước còn có tòa án của đạo Hồi. 2.2. Cấu trúc và nguồn pháp luật ở một số quốc gia Hồi giáo - Hệ thống pháp luật của Ả Rập Đạo Hồi ở đây được thiết lập một cách vững chắc với sự cai trị của một nhà nước dựa trên cơ sở diễn giải theo từng chữ kinh Koran và luật Shariah. Hệ thống pháp luật của Ả Rập hoàn toàn dựa trên luật hồi giáo và gồm 3 bộ phận: Bộ phận thứ nhất là luật Hồi giáo không được pháp điển hóa theo học thuyết Hồi giáo truyền thống, bộ phận thứ hai là luật thành văn thể chế hóa những quy định của luật Hồi giáo, bộ phận thứ ba là các văn bản luật điều chỉnh những vấn đề mà luật Hồi giáo không điều chỉnh. - Hệ thống luật Iran Hệ thống luật Iran mang tính hỗn hợp, vừa chịu ảnh hưởng của Luật Hồi giáo vừa chịu ảnh hưởng của pháp luật châu Âu lục địa. Iran là một trong số ít nước Hồi giáo không bị thuộc địa hóa một cách trực tiếp. Câu hỏi: 1. Phân tích các đặc điểm của Luật Hồi giáo. 2. Nguồn của Luật Hồi giáo. 3. Pháp luật Đạo Hồi với vấn đề dân chủ và nhân quyền. 59