Giáo trình Luật lao động (Phần 1) - Trường Đại học Vinh
Thuật ngữ Luật lao động có thể được hiểu trên ba phương diện là khoa học
Luật lao động, môn học Luật lao động và ngành Luật lao động.
Dưới góc độ khoa học Luật lao động thì Luật lao động là một ngành khoa
học trong hệ thống các ngành khoa học pháp lý. Cũng như bất kỳ ngành khoa học
nào khoa học Luật lao động cũng có quá trình hình thành và phát triển; có hệ thống
khái niệm, phạm trù, quy luật riêng; có đối tượng nghiên cứu và phương pháp
nghiên cứu riêng. Những tiêu chí đó đã giúp cho khoa học Luật lao động trở thành
một ngành khoa học độc lập trong hệ thống khoa học pháp lý của Việt Nam.
Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của khoa học Luật lao động. Ngành khoa học này có
đối tượng nghiên cứu là ngành luật lao động với tư cách là một ngành luật độc lập
trong hệ thống pháp luật Việt Nam.
- Những vấn đề lý luận về quản lý nhà nước trong lĩnh vực lao động và xã
hội như: kinh tế thị trường; thị trường sức lao động; những yêu cầu và chức năng
quản lý nhà nước về lao động; mối tương quan giữa các yếu tố thị trường lao động;
quan hệ lao động, pháp luật lao động và mối quan hệ giữa quản lý lao động với các
lĩnh vực quản lý nhà nước khác. Thực chât, khi nghiên cứu những vấn đề này, khoa
học Luật lao động không đi sâu nghiên cứu chi tiết các nội dung kinh tế thuộc về
đối tượng của khoa học kinh tế - lao động. Ngành khoa học này chỉ nghiên cứuc các
mối quan hệ lao động trong chừng mực có liên quan với các mối quan hệ kinh tế -
xã hội khác dưới góc độ quản lý nhà nước bằng pháp luật. Tức là, chỉ chủ yếu
nghiên cứu hình thức pháp lý của các quan hệ lao động và những quan hệ xã hội
khác có liên quan đến quan hệ lao động.
- Những quy phạm pháp luật lao động như những bộ phận cấu thành của
Luật lao động.
Khoa học Luật lao động nghiên cứu nội dung hàm chứa trong các quy phạm
pháp luật lao động hiện hành, nhằm rút ra các đặc điểm cũng như mặt tích cực và
hạn chế của các quy phạm pháp luật để có thể kiến nghị với cơ quan có thẩm quyền
về việc sửa đổi, bổ sung những quy phạm đó.
Khoa học Luật lao động còn nghiên cứu những quy phạm pháp luật này
trong quá trình phát sinh, phát triển, so sánh chúng với các quy phạm pháp luật đã
được ban hành trước đó để thấy được sự kế thừa và phát triển trong việc xây dựng
hệ thống pháp luật cũng như dự kiến hướng hoàn thiện chúng trong tương lai. Việc
nghiên cứu được tiến hành đối với từng quy phạm pháp luật; đồng thời đặt chúng
trong mối quan hệ với những quy phạm pháp luật khác.
Nghiên cứu các quy phạm pháp luật của một ngành luật, khoa học luật lao
động tìm ra những điểm hoặc những quy phạm cần sửa đổi, bổ sung để cho từng
chế định đảm bảo được tính thống nhất và hoàn chỉnh làm cơ sở hoàn thiện ngành
luật đó.
Luật lao động, môn học Luật lao động và ngành Luật lao động.
Dưới góc độ khoa học Luật lao động thì Luật lao động là một ngành khoa
học trong hệ thống các ngành khoa học pháp lý. Cũng như bất kỳ ngành khoa học
nào khoa học Luật lao động cũng có quá trình hình thành và phát triển; có hệ thống
khái niệm, phạm trù, quy luật riêng; có đối tượng nghiên cứu và phương pháp
nghiên cứu riêng. Những tiêu chí đó đã giúp cho khoa học Luật lao động trở thành
một ngành khoa học độc lập trong hệ thống khoa học pháp lý của Việt Nam.
Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của khoa học Luật lao động. Ngành khoa học này có
đối tượng nghiên cứu là ngành luật lao động với tư cách là một ngành luật độc lập
trong hệ thống pháp luật Việt Nam.
- Những vấn đề lý luận về quản lý nhà nước trong lĩnh vực lao động và xã
hội như: kinh tế thị trường; thị trường sức lao động; những yêu cầu và chức năng
quản lý nhà nước về lao động; mối tương quan giữa các yếu tố thị trường lao động;
quan hệ lao động, pháp luật lao động và mối quan hệ giữa quản lý lao động với các
lĩnh vực quản lý nhà nước khác. Thực chât, khi nghiên cứu những vấn đề này, khoa
học Luật lao động không đi sâu nghiên cứu chi tiết các nội dung kinh tế thuộc về
đối tượng của khoa học kinh tế - lao động. Ngành khoa học này chỉ nghiên cứuc các
mối quan hệ lao động trong chừng mực có liên quan với các mối quan hệ kinh tế -
xã hội khác dưới góc độ quản lý nhà nước bằng pháp luật. Tức là, chỉ chủ yếu
nghiên cứu hình thức pháp lý của các quan hệ lao động và những quan hệ xã hội
khác có liên quan đến quan hệ lao động.
- Những quy phạm pháp luật lao động như những bộ phận cấu thành của
Luật lao động.
Khoa học Luật lao động nghiên cứu nội dung hàm chứa trong các quy phạm
pháp luật lao động hiện hành, nhằm rút ra các đặc điểm cũng như mặt tích cực và
hạn chế của các quy phạm pháp luật để có thể kiến nghị với cơ quan có thẩm quyền
về việc sửa đổi, bổ sung những quy phạm đó.
Khoa học Luật lao động còn nghiên cứu những quy phạm pháp luật này
trong quá trình phát sinh, phát triển, so sánh chúng với các quy phạm pháp luật đã
được ban hành trước đó để thấy được sự kế thừa và phát triển trong việc xây dựng
hệ thống pháp luật cũng như dự kiến hướng hoàn thiện chúng trong tương lai. Việc
nghiên cứu được tiến hành đối với từng quy phạm pháp luật; đồng thời đặt chúng
trong mối quan hệ với những quy phạm pháp luật khác.
Nghiên cứu các quy phạm pháp luật của một ngành luật, khoa học luật lao
động tìm ra những điểm hoặc những quy phạm cần sửa đổi, bổ sung để cho từng
chế định đảm bảo được tính thống nhất và hoàn chỉnh làm cơ sở hoàn thiện ngành
luật đó.
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Giáo trình Luật lao động (Phần 1) - Trường Đại học Vinh", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
- giao_trinh_luat_lao_dong_phan_1_truong_dai_hoc_vinh.pdf
Nội dung text: Giáo trình Luật lao động (Phần 1) - Trường Đại học Vinh
- quan hệ lao động này không tách rời khỏi quan hệ sở hữu và quan hệ phân phối sản phẩm. Cơ sở pháp lý làm phát sinh mối quan hệ này là gia nhập, kết nạp thành viên chứ không phải bằng con đường tuyển dụng hay ký kết hợp đồng lao động. Việc xác lập, thực hiện quan hệ này từ kết nạp, khen thưởng, điều hành đều do hợp tác xã trực tiếp quy định trên cơ sở pháp luật, thể hiện rõ trong Điều lệ của Hợp tác xã. Mâu thuẫn phát sinh giữa các chủ thể trong hợp tác xã được giải quyết trong nội bộ hợp tác xã hoặc thông qua các cơ quan tài phán kinh tế, theo thủ tục giải quyết tranh chấp kinh doanh. Có thể thấy rõ quan hệ lao động này mang nặng tính nội bộ và không tách rời với quan hệ sở hữu và quan hệ quản lý. Do có tính chất đặc thù nên quan hệ lao động này do Luật Hợp tác xã điều chỉnh. Thứ ba, quan hệ lao động giữa người lao động và người thuê mướn lao động nhằm hoàn thành một công việc chỉ tính đến kết quả công việc (quan hệ khoán việc). Người thuê mướn lao động chỉ tính đến kết quả công việc mà không tính đến quá trình tạo ra kết quả đó, người lao động được trả công theo hình thức công nhật hoặc theo sản phẩm thực tế. Họ cũng phải tuân theo những yêu cầu nào đó nhưng yếu tố tổ chức, quản lý lao động không rõ ràng. Cơ sở pháp lý của mối quan hệ này là sự thỏa thuận giữa hai bên thông qua việc giao kết hợp đồng dân sự. Việc xác lập, thực hiện quan hệ này trên cơ sở quy định pháp luật dân sự. Những quan hệ này khó phân biệt cho nên nếu có tranh chấp xảy ra các bên phải tự chứng minh quan hệ của họ có dấu hiệu của quan hệ lao động hay không? Nếu không chứng minh được có sự quản lý lao động trong quá trình lao động thì quyền và nghĩa vụ của các bên sẽ được giải quyết theo quy định của Luật dân sự. Nghĩa là nếu các dấu hiệu của quan hệ lao động không rõ ràng thì những mâu thuẫn phát sinh trong mối quan hệ này được giải quyết bằng hòa giải hoặc qua tòa án nhân dân theo thủ tục tố tụng dân sự. Tóm lại, mối quan hệ này mang tính thỏa thuận tuyệt đối, dựa trên các quy định của pháp luật dân sự và sẽ do ngành luật dân sự điều chỉnh. Thứ tư, quan hệ lao động làm công ăn lương giữa người lao động với người sử dụng lao động trong quá trình sử dụng sức lao động là đối tượng điều chỉnh của luật lao động. Trong nền kinh tế thị trường, sức lao động là hàng hóa đặc biệt. Pháp luật cho phép các tổ chức, cá nhân được tự do sản xuất kinh doanh và thuê mướn lao động phù hợp với nhu cầu của mình; còn người lao động thì có quyền lựa chọn làm việc cho bất kỳ người sử dụng lao động nào và bất cứ nơi nào mà pháp luật không cấm. Thực tế, loại quan hệ lao động làm công ăn lương có tên gọi khác nhau như quan hệ chủ - thợ, quan hệ thuê mướn lao động, quan hệ hợp đồng lao động. Về bản chất, đây là quan hệ lao động giữa một bên là người sử dụng lao động (nắm tư liệu sản xuất, trả công cho NLĐ để được sử dụng sức lao động tạo ra sản phẩm) và một bên là người lao động (có sức lao động và bán sức lao động cho người sử dụng lao động để được hưởng tiền công). Trong quá trình sử dụng sức lao động, tính ổn định của mối quan hệ và sự lệ thuộc của NLĐ vào NSDLĐ là rất lớn. Trong mối quan hệ lao động này, người lao động phải tự mình thực hiện công việc được giao, không được tự ý chuyển giao nghĩa vụ lao động của mình cho người khác khi chưa được người sử dụng lao động đồng ý. Bởi vì, kết quả của hoạt 11
- động phụ thuộc trực tiếp vào trình độ chuyên môn, khả năng lao động, sức khỏe cũng như các đặc điểm riêng biệt về nhân cách, phẩm chất đạo đức và thái độ đối với công việc của NLĐ. Bên cạnh đó, với tư cách là người sở hữu tư liệu sản xuất, người sử dụng lao động được kiểm tra, giám sát quá trình lao động của người lao động để đảm bảo cho quan hệ lao động đạt được mục tiêu nhất định, tạo ra lợi nhuận cho mình; đồng thời đảm bảo trả công cho người lao động. Ngoài ra, trong mối quan hệ lao động đó, người lao động luôn ở vị thế yếu hơn so với người sử dụng lao động nên pháp luật cho phép có sự tham gia của tổ chức Công đòan vào quá trình xác lập, thực hiện, thay đổi và chấm dứt quan hệ lao động. Do mối quan hệ lao động này có tính chất bình đẳng tương đối nên cơ sở pháp lý làm phát sinh quan hệ giữa người lao động làm công ăn lương và người sử dụng lao động hữu hiệu nhất là việc giao kết hợp đồng lao động; tức là bằng những thỏa thuận trong hợp đồng lao động, người lao động cam kết để bên kia sử dụng sức lao động của mình cho nhu cầu công việc mà bên đó tạo ra. Việc xác lập quan hệ này dựa trên sự tự nguyện, tự thỏa thuận của các bên về các vấn đề liên quan đến quá trình lao động phù hợp với pháp luật. Nhà nước không can thiệp trực tiếp mà thông qua các quy định pháp luật tạo hành lang pháp lý; trong đó quyền lợi của các bên được pháp luật quy định ở mức tối thiểu và nghĩa vụ thì được quy định ở mức tối đa; để cho các chủ thể khi tham gia vào mối quan hệ này được tự do thương lượng với nhau trên nguyên tắc cùng có lợi và không trái pháp luật. Trong qúa trình thực hiện quan hệ lao động này, mọi tranh chấp phát sinh giữa hai bên sẽ được giải quyết thông qua thương lượng, hòa giải, trọng tài hoặc xét xử tại Tòa án, theo thủ tục giải quyết tranh chấp lao động. Tuy nhiên, xét trên một góc độ nào đó công chức Nhà nước cũng thuộc giới những người lao động trong xã hội. Nhà nước cũng sử dụng sức lao động của cán bộ công chức để thực hiện các công vụ cho nên có thể nói đây cũng là mối quan hệ giữa người lao động và người sử dụng lao động. Giữa các bên mặc dù không có sự thỏa thuận chung nhưng Nhà nước cũng cần căn cứ vào sự tiêu hao sức lực của người lao động trong từng công việc để quyết định tiền lương, thời gian làm việc của họ cho phù hợp. Đồng thời, họ cũng được đảm bảo về điều kiện an toàn lao động, vệ sinh lao động và được bảo hiểm xã hội trong và sau quá trình lao động. Do đó, một số quy định của Bộ luật lao động cũng được áp dụng cho mối quan hệ lao động giữa cán bộ công chức với Nhà nước chẳng hạn các quy định về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi; an tòan lao động, vệ sinh lao động, công đoàn Quan hệ lao động làm công ăn lương được xem như là loại quan hệ đặc biệt và tiêu biểu trong nền kinh tế thị trường. Được xác lập và tiến hành thông qua thương lượng, theo nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng, hợp tác; tôn trọng quyền và nghĩa vụ hợp pháp của người lao động cũng như người sử dụng lao động; thực hiện đầy đủ các thỏa thuận đã cam kết, quan hệ lao động này có tính chất sau: - Quan hệ lao động vừa có tính xã hội, vừa có tính kinh tế Là quan hệ giữa con người với con người, quan hệ lao động mang tính xã hội nghĩa là các bên tham gia mối quan hệ này hướng tới việc thỏa mãn các giá trị tinh thần nhất định. Nhưng, là một bộ phận của quan hệ sản xuất quan hệ lao động chịu 12
- sự chi phối trực tiếp của quan hệ sở hữu tư liệu sản xuất. Một hiệ tượng phổ biến trong xã hội hiện nay là mỗi bên đều hướng tới lợi ích kinh tế của mình khi tham gia vào quan hệ lao động. Người sử dụng lao động thường hướng tới lợi nhuận trong việc sử dụng sức lao động của người lao động; còn người lao động hướng tới tiền công khi làm việc cho người sử dụng lao động để đảm bảo cuộc sống của bản thân và gia đình. Để quan hệ lao động làm công ăn lương phát triển theo hướng tích cực cần đảm bảo hài hòa giữa lợi ích vật chất và lợi ích tinh thần của các bên. - Quan hệ lao động vừa có tính thống nhất vừa có tính mâu thuẫn Trong quá trình lao động của người lao động, người sử dụng lao động và người lao động kết hợp với nhau tạo nên mối quan hệ lao động. Kết quả lao động phụ thuộc rất nhiều vào mức độ hợp tác giữa hai bên. Quan hệ lao động có tồn tại ổn định và phát triển thì quyền lợi lâu dài của các bên mới được bảo đảm. Tuy nhiên, thường thì lợi ích kinh tế của các bên trong quan hệ lao động đối lập nhau, tạo nên tính mâu thuẫn trong quan hệ lao động. Trong khi lợi ích của người sử dụng lao động tỷ lệ thuận với giảm chi phí, tăng lợi nhuận thì lợi ích của người lao động liên quan chặt chẽ với tiền công và điều kiện lao động dường như là tỷ lệ thuận với việc đầu tư và tăng chi phí. Do vậy, ý thức tôn trọng và bảo vệ lợi ích của đối tác từ cả hai phía sẽ là rất cần thiết để đảm bảo lợi ích chung của đôi bên trong quan hệ lao động. - Quan hệ lao động vừa có tính bình đẳng vừa có tính phụ thuộc Trong quan hệ lao động dựa trên cơ chế công hữu về tư liệu sản xuất (công ty Nhà nước) thì các thành viên tham gia đều là chủ sở hữu, đều bình đẳng về mặt kinh tế; tức là bình đẳng trong sở hữu tài sản của doanh nghiệp. Còn trong các doanh nghiệp khác địa vị kinh tế của người sử dụng lao động và người lao động hoàn toàn khác nhau. Người sử dụng lao động với tư cách là chủ sở hữu tư liệu sản xuất sẽ có quyền riêng của họ trong tổ chức sản xuất cũng như trong phân phối thu nhập; họ có quyền quy định quy chế phân phối trong đơn vị của mình; có quyền quyết định các mức lương ở từng vị trí công việc; có quyền trả lương cho người lao động từ khối tài sản của mình hoặc mình đang quản lý. Thực tế, thiện chí giữa hai bên là cơ sở để người sử dụng lao động quyết định có tiếp tục thuê mướn người lao động đó nữa hay không? Trong khi đó người lao động chỉ có sức lao động sẽ bị lệ thuộc cả về mặt kinh tế và pháp lý trong quan hệ với người sử dụng lao động. Mặt khác, lợi nhuận của người sử dụng lao động một phần phụ thuộc vào quá trình lao động của người lao động. Do đó, để điều chỉnh hành vi của các bên trong quan hệ lao động bên cạnh việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng lao động và người lao động thì Nhà nước cũng đưa ra các quy định pháp luật nhằm giảm bớt sự lệ thuộc về mặt kinh tế và pháp lý của người lao động và người sử dụng lao động. - Quan hệ lao động vừa có tính cá nhân vừa có tính tập thể Lao động tạo ra của cải vật chất và tinh thần cho xã hội. Tuy nhiên, trong điều kiện chuyên môn hóa cao thì họat động lao động thường đòi hỏi sự hợp tác làm việc của một tập thể người lao động. Trong doanh nghiệp, sự hợp tác này diễn ra dưới sự điều hành của người sử dụng lao động. Tính cá nhân và tính tập thể của quan hệ lao động gắn bó hữu cơ với nhau. Quan hệ lao động cá nhân (trên cơ sở HĐLĐ) làm tiền đề cho quan hệ lao động tập thể (dựa trên cơ sở thương lượng và 13
- ký kết thỏa ước lao động tập thể) được thiết lập và ngược lại; quan hệ lao động tập thể góp phần hỗ trợ cho quan hệ lao động cá nhân được xác lập và thực hiện. Như vậy, quan hệ lao động làm công ăn lương có các nội dung chủ yếu như: hợp đồng lao động, thỏa ước lao động tập thể, tiền lương; thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi; bảo hộ lao động; kỷ luật lao động, trách nhiệm vật chất; giải quyết tranh chấp lao động. Ngoài ra, để đảm bảo cho quan hệ lao động phát triển hài hòa còn có những quan hệ xã hội phát sinh trước; đồng thời hoặc phát sinh sau quan hệ lao động cũng được Luật lao động điều chỉnh, đó là các quan hệ việc làm, học nghề; quan hệ đại diện; quan hệ bảo hiểm xã hội; quan hệ quản lý nhà nước về lao động. 1.2.2. Các quan hệ xã hội có liên quan trực tiếp với quan hệ lao động Ngòai quan hệ lao động làm công ăn lương, Luật lao động còn điều chỉnh các quan hệ xã hội liên quan trực tiếp với quan hệ lao động. Bao gồm: - Quan hệ về việc làm Đối với người lao động thì việc làm là điều quan tâm đầu tiên trong suốt cuộc đời lao động. Việc làm đầy đủ, hiệu quả, việc làm được tự do lựa chọn là những vấn đề đã được tổ chức lao động quốc tế, các nước trên thế giới và Việt Nam đặt ra và nỗ lực đảm bảo. Quan hệ về việc làm là quan hệ phát sinh giữa một bên là cá nhân có nhu cầu tìm kiếm việc làm, bảo đảm việc làm với một bên là Nhà nước, các doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân có khả năng thuê mướn, trả công lao động và tổ chức giới thiệu việc làm. Đây thực chất chưa phải là quan hệ lao động mà chỉ đóng vai trò thiết lập đảm bảo cho quan hệ lao động được tồn tại. Để đảm bảo được việc làm của người lao động, Nhà nước với chức năng quản lý định hướng thị trường phải đề ra và thực hiện chủ trương, chính sách đúng đắn về việc làm; các thiết chế hỗ trợ cho thị trường lao động như dịch vụ việc làm được hình thành; các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân sử dụng lao động phải được khuyến khích và nỗ lực giải quyết và đảm bảo việc làm cho người lao động; người lao động có quyền tự do chọn việc làm Điều đó làm hình thành nên nhiều mối quan hệ về việc làm và bảo đảm việc làm. Các quan hệ đó bao gồm ba loại: + Quan hệ về bảo đảm việc làm giữa người sử dụng lao động và người lao động Pháp luật quy định vấn đề bảo đảm quyền tự do lựa chọn việc làm của người lao động, tự do tuyển dụng lao động của người sử dụng lao động; Nhà nước xác định các đối tượng được ưu tiên giải quyết việc làm, đảm bảo tính hợp pháp; thực hiện đầy đủ việc làmcho người lao động như đã thỏa thuận; nếu do thay đổi cơ cấu, công nghệ mà làm cho người lao động mất việc thì người sử dụng lao động phải trả trợ cấp mất việc làm cho ngưòi lao động; nếu người lao động thôi việc vì các lý do khác thì phải được trả trợ cấp thôi việc theo quy định của pháp luật. + Quan hệ giữa các tổ chức giới thiệu việc làm với người lao động và người sử dụng lao động. Trong mối quan hệ này, Luật lao động quy định rõ trách nhiệm cũng như quyền hạn của tổ chức giới thiệu việc làm, người lao động và người sử dụng lao động. - Quan hệ học nghề Trình độ chuyên môn, tay nghề là yếu tố quan trọng tạo ra năng suất, chất lượng, hiệu quả lao động. Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật hiện nay đòi 14
- hỏi trình độ nghề nghiệp của người lao động ngày càng được nâng cao. Do vậy, quan hệ học nghề vừa là một quan hệ xã hội độc lập, vừa là một quan hệ có liên quan trực tiếp với quan hệ lao động. Người lao động phải vừa lao động vừa nâng cao trình độ tay nghề để có và giữ được việc làm và thăng tiến trong công việc. Đồng thời, chất lượng của quan hệ học nghề có ảnh hưởng trực tiếp đến cơ hội và tính bền vững của việc làm, đến trình độ chuyên môn và mức thu nhập của người lao động trong quan hệ lao động. Quan hệ về học nghề là quan hệ xã hội hình thành giữa người học nghề và các cơ sở dạy nghề do Nhà nước cho phép thành lập. Về mặt hình thức quan hệ này luôn hình thành trên cơ sở hợp đồng học nghề. Cùng với quan hệ việc làm, quan hệ học nghề thuộc nhóm quan hệ có ảnh hưởng trực tiếp với quan hệ lao động, thường đan xen với quan hệ lao động hoặc nhiều khi phát sinh trước để tạo điều kiện cho quan hệ lao động hình thành. Đối với quan hệ học nghề, luật lao động chỉ điều chỉnh trong phạm vi liên quan đến quan hệ lao động đã xác định. - Quan hệ bồi thường thiệt hại trong quá trình lao động Trong quá trình lao động nếu một bên gây thiệt hại về tài sản hoặc sức khỏe cho phía bên kia thì phải có trách nhiệm bồi thường. Quan hệ bồi thường thiệt hại vật chất có liên quan rất chặt chẽ đến quan hệ lao động, chỉ phát sinh trên cơ sở các bên đã thiết lập quan hệ lao động. Quan hệ này chia thành 3 loại sau: + Quan hệ bồi thường thiệt hại về tài sản. Nếu trong quá trình thực hiện quan hệ về lao động, người lao động vi phạm kỷ luật lao động dẫn đến làm mất mát hư hỏng dụng cụ, vật tư, thiết bị mà mình được người sử dụng lao động giao cho để quản lý thì người lao động có trách nhiệm phải chịu trách nhiệm vật chất, bồi thường thiệt hại cho người sử dụng lao động. + Quan hệ bồi thường thiệt hại khi chấm dứt hợp đồng lao động. Khi chấm dứt hợp đồng lao động, nếu bên nào vi phạm cam kết chấm dứt hợp đồng bất hợp pháp hoặc không thuộc trường hợp được chấm dứt hoặc thuộc trường hợp pháp luật cấm chấm dứt hoặc chấm dứt vi phạm về thủ tục thì phải bồi thường cho bên kia theo quy định của pháp luật. + Quan hệ bồi thường thiệt hại về sức khỏe, tính mạng người lao động. Trong quá trình người lao động thực hiện nghĩa vụ lao động của mình, nếu rủi ro gặp tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp (ngay cả trong trường hợp do lỗi của người lao động) thì phát sinh quan hệ bồi thường, trợ cấp tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp giữa người lao động (hoặc gia đình người lao động bị tai nạn lao động tử vong) với người sử dụng lao động. Luật lao động điều chỉnh các mối quan hệ bồi thường thiệt hại nêu trên nhằm mục đích khôi phục lại những thiệt hại mà các bên của quan hệ lao động đã gây ra cho nhau cũng như để nâng cao tinh thần trách nhiệm, ý thức tổ chức kỷ luật trong lao động. - Quan hệ về bảo hiểm xã hội. Sức lao động của con người không tồn tại vĩnh cửu mà suy giảm cùng với thời gian, tuổi tác và mức độ cống hiến của người lao động. Một trong những đòi hỏi của xã hội ngày nay là phải đảm bảo cho người lao động, bảo đảm thu nhập, sức khỏe, tính mạng và sau khi lao động. Do vậy, đã làm phát sinh quan hệ về bảo hiểm xã hội. 15
- Quan hệ này phát sinh trên cơ sở hình thành quan hệ lao động và các bên tham gia quan hệ lao động đóng góp phí bảo hiểm xã hội. Quan hệ này chia thành hai loại là quan hệ trong việc tạo lập quỹ bảo hiểm xã hội và quan hệ trong việc chi trả trợ cấp bảo hiểm xã hội. Quá trình đảm bảo các điều kiện vật chất cho người lao động có liên quan chặt chẽ với quan hệ lao động vì vậy được các quy phạm pháp luật lao động điều chỉnh. - Quan hệ về đại diện lao động. Đây là mối quan hệ giữa tổ chức Công đoàn với tư cách là người đại diện và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho tập thể người lao động với người sử dụng lao động được thiết lập trong lĩnh vực sản xuất, lao động cải thiện đời sống cho người lao động. Xuất phát từ đặc điểm là trong quan hệ lao động làm công ăn lương, người lao động luôn ở vị thế yếu hơn so với người sử dụng lao động cho nên Nhà nước quy định cho tổ chức Công đoàn (tổ chức có chức năng đại diện và bảo vệ quyền lợi cho người lao động) được tham gia vào quá trình hoạch định chính sách pháp luật của Nhà nước; kiểm tra, giám sát việc thực hiện quan hệ lao động; được tham gia trực tiếp vào quá trình thương lượng Thỏa ước lao động tập thể, giải quyết tranh chấp lao động, đình công - Quan hệ về giải quyết tranh chấp lao động và các cuộc đình công Trong quá trình thực hiện quan hệ lao động, giữa các bên tham gia vào quan hệ này có thể phát sinh những bất đồng, mâu thuẫn. Việc giải quyết những xung đột phát sinh giữa người lao động với người sử dụng lao động mà các bên không tự xử lý được sẽ do các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền thực hiện nhằm đảmbảo quyền và lợi ích hợp pháp cho các bên; nhằm đảm bảo sự ổn định cho quan hệ lao động. Đây là quan hệ giữa cơ quan có thẩm quyền giải quyết tranh chấp lao động và giải quyết đình công với các bên trong quan hệ lao động. - Quan hệ về quản lý và thanh tra nhà nước về lao động Là quan hệ giữa Nhà nước (cơ quan Nhà nước có thẩm quyền) với người sử dụng lao động trong việc chấp hành các quy định pháp luật về sử dụng lao động. Đặc điểm của quan hệ lao động làm công ăn lương là có tính bình đẳng tương đối nên Nhà nước quy định khung pháp lý và cho phép các bên được thỏa thuận về các vấn đề cụ thể liên quan đến nội dung của quan hệ lao động. Sự thỏa thuận này phải phù hợp với quy định của pháp luật. Với chức năng quản lý Nhà nước (thông qua các cơ quan Nhà nước) tiến hành kiểm tra, thanh tra việc thực hiện pháp luật của các bên trong quan hệ lao động. Nếu có vi phạm thì Nhà nước sẽ tiến hành xử lý nghiêm minh. 1.3. Phương pháp điều chỉnh Cùng với đối tượng điều chỉnh, phương pháp điều chỉnh là căn cứ để phân biệt các ngành luật và khẳng định tính độc lập của mỗi ngành luật. Phương pháp điều chỉnh của một ngành luật là cách thức, biện pháp tác động của Nhà nước lên các quan hệ xã hội mà ngành luật đó điều chỉnh. Nó được xác định dựa trên đặc điểm, tính chất của đối tượng điều chỉnh của ngành luật đó. Xuất phát từ đặc điểm của quan hệ lao động làm công ăn lương mà luật lao động sử dụng kết hợp ba phương pháp điều chỉnh. - Phương pháp bình đẳng thỏa thuận; - Phương pháp mệnh lệnh; 16
- - Phương pháp tác động thông qua hoạt động của tổ chức Công đoàn trong quá trình lao động 1.3.1 Phương pháp bình đẳng, thỏa thuận Là phương pháp điều chỉnh mang tính chất đặc thù của ngành luật dân sự. Một số ngành luật cũng sử dụng phương pháp này trong đó có ngành luật lao động. Trong Luật lao động của cơ chế thị trường, phương pháp thỏa thuận được sử dụng phổ biến và giữ một vai trò quan trọng xuất phát từ bản chất của quan hệ lao động. Phương pháp bình đẳng thỏa thuận được sử dụng trước hết trong việc xác lập quan hệ lao động giữa người lao động và người sử dụng lao động, xác lập thỏa ước lao động tập thể và trong quá trình giải quyết tranh chấp lao động. Phương pháp này còn được áp dụng trong việc xác lập hành lang pháp lý dựa trên nguyên tắc: những quy định về nghĩa vụ và trách nhiệm của người lao động thì ở mức tối đa còn những quy định về lợi ích và quyền của họ thì được quy định ở mức tối thiểu. Trong khuôn khổ hành lang pháp lý đó, khi tham gia vào quan hệ lao động các bên chủ thể của quan hệ lao động có thể tự do thương lượng và thỏa thuận các vấn đề quan trọng trong quá trình lao động trên cơ sở tự nguyện, bình đẳng nhằm đảm bảo cho hai bên cùng có lợi và thực hiện tốt nghĩa vụ của mình trên cơ sở nhu cầu và khả năng đáp ứng của mỗi bên. Ngoài ra phương pháp thỏa thuận còn được sử dụng ở hầu hết các giai đoạn của quá trình giải quyết tranh chấp lao động. Nguyên tắc thương lượng, hòa giải được sử dụng trong tất cả các giai đoạn của quá trình giải quyết tranh chấp lao động. Xuất phát từ bản chất của quan hệ lao động là tự do thương lượng nên khi tham gia vào quan hệ lao động các bên cùng nhau thỏa thuận các vấn đề liên quan trong quá trình lao động trên cơ sở tự nguyện, bình đẳng nhằm đảm bảo cho hai bên cùng có lợi và tạo điều kiện để các bên thực hiện tốt các nghĩa vụ của mình. Tuy nhiên, phương pháp thỏa thuận trong Luật lao động không giống như trong ngành Luật dân sự. Sự khác nhau đó thể hiện qua tính chất của các quan hệ xã hội mà mỗi ngành luật điều chỉnh. Trong Luật dân sự, các quan hệ xã hội chủ yêu thuộc đối tượng điều chỉnh của nó là các quan hệ tài sản. Các chủ thể tham gia vào các quan hệ tài sản độc lập với nhau về tài sản và tổ chức, nghĩa là bình đẳng và độc lập với nhau về địa vị kinh tế. Chính vì vậy, mà phương pháp thỏa thuận trong Luật dân sự được sử dụng triệt để, tác động lên quan hệ dân sự trong suốt quá trình từ khi xác lập đến khi chấm dứt hợp đồng. Trong khi đó đối với Luật lao động các chủ thể tham gia vào quan hệ lao động không bình đẳng về địa vị và không độc lập với nhau về lợi ích kinh tế. Khi tham gia vào quan hệ lao động người lao động bị ràng buộc với người sử dụng lao động về mặt tổ chức và lợi ích kinh tế và thường yếu thế hơn so với người sử dụng lao động. Chính vì vậy, để điều hòa mối quan hệ lao động này Nhà nước đã đặt ra những quy định nhằm bảo vệ quyền và lợi ích của người lao động, nâng cao vị trí của họ để họ bình đẳng với người sử dụng lao động. Phương pháp thỏa thuận trong Luật lao động tuy là tự do thương lượng, tự nguyện thỏa thuận nhưng các chủ thể của quan hệ lao động chỉ được thực hiện quyền tự định đoạt của mình trong khuôn khổ và không trái pháp luật. 17