Giáo trình Luật cạnh tranh (Phần 2) - Trường Đại học Vinh

Trong kinh tế học, hành vi thoả thuận hạn chế cạnh tranh (Cartel) được nhìn nhận
là sự thống nhất hành động của nhiều doanh nghiệp nhằm giảm bớt hoặc loại bỏ sức ép
của cạnh tranh hoặc hạn chế khả năng hành động một cách độc lập giữa các đối thủ cạnh
tranh. Từ điển Chính sách thương mại quốc tế định nghĩa Cartel là một thỏa thuận chính
thức hoặc không chính thức để đạt được kết quả có lợi cho các hàng có liên quan, nhưng
có thể có hại cho các bên khác50.
Khoản 1 Điều 81 Hiệp ước Rome nghiêm cấm mọi thỏa thuận giữa các doanh
nghiệp, mọi quyết định của hiệp hội doanh nghiệp và mọi hành động phối hợp có khả
năng ảnh hưởng đến trao đổi thương mại giữa các quốc gia thành viên và có mục đích
hoặc hệ quả phản cạnh tranh.
Luật Cạnh tranh Việt Nam không đưa ra khái niệm mà sử dụng phương pháp liệt
kê các thỏa thuận bị coi là thỏa thuận hạn chế cạnh tranh bao gồm:
- Thỏa thuận ấn định giá hàng hóa, dịch vụ một cách trực tiếp hoặc gián tiếp;
- Thỏa thuận phân chia thị trường tiêu thụ, nguồn cung cấp hàng hóa, cung ứng
dịch vụ;
- Thỏa thuận hạn chế hoặc kiểm soát số lượng, khối lượng sản xuất, mua bán,
hàng hóa, dịch vụ;
- Thỏa thuận hạn chế phát triểnkỹ thuật, công nghệ, hạn chế đầu tư; thỏa thuận
áp đặt cho các doanh nghiệp khác điều kiện ký kết hợp đồng mua bán hàng hóa, dịch vụ
hoặc buộc doanh nghiệp khác chấp nhận các nghĩa vụ không liên quan trực tiếp đến đối
tượng của hợp đồng;
- Thỏa thuận ngăn cản, kìm hãm không cho doanh nghiệp khác tham gia thị
trường hoặc phát triển kinh doanh;
- Thỏa thuận loại bỏ khỏi thị trường những doanh nghiệp không phải là các bên
của thỏa thuận;
- Thông đồng để một hoặc các bên của thỏa thuận thắng thầu trong việc cung
cấp hàng hóa, cung ứng dịch vụ.
Việc không đưa ra khái niệm mà chỉ liệt kê các thỏa thuận cụ thể đã không gây
nên những tranh luận cần thiết về hình thức và bản chất pháp lý của thỏa thuận hạn chế
cạnh tranh. Theo đó, chỉ những thỏa thuận được liệt kê tại Điều 8 Luật Cạnh tranh mới bị
coi là thỏa thuận hạn chế cạnh tranh.
Trên thực tế, thoả thuận giữa các doanh nghiệp diễn ra ở nhiều công đoạn khác nhau của
quá trình sản xuất, phân phối. Do đó, có nhiều dạng biểu hiện khác nhau của thỏa thuận
hạn chế cạnh tranh: thỏa thuận giữa những người bán với nhau (ví dụ: như thỏa thuận ấn
định giá, thỏa thuận phân chia thị trường...); thỏa thuận giữa những người mua; thỏa
thuận trong đấu thầu.
Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh có thể diễn ra giữa các doanh nghiệp thuộc những
khâu khác nhau của quá trình kinh doanh;
- Thỏa thuận theo chiều ngang là những thỏa thuận giữa các chủ thể kinh doanh
trong cùng ngành hàng và cùng khâu của quá trình kinh doanh (ví dụ giữa những người
bán buôn với nhau, giữa những người bán lẻ với nhau);
- Thỏa thuận theo chiều dọc là thỏa thuận giữa những doanh nghiệp ở các công
đoạn sản xuất khác nhau. 
pdf 52 trang hoanghoa 09/11/2022 4900
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Giáo trình Luật cạnh tranh (Phần 2) - Trường Đại học Vinh", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfgiao_trinh_luat_canh_tranh_phan_2_truong_dai_hoc_vinh.pdf

Nội dung text: Giáo trình Luật cạnh tranh (Phần 2) - Trường Đại học Vinh

  1. của người mời thầu, mà do các doanh nghiệp tham gia thông đồng xác định. Các loại thông đồng trong đấu thầu bị cấm theo Luật Cạnh tranh Căn cứ Điều 21 Nghị định số 116/2005/NĐ-CP, các loại thông đồng trong đấu thầu bị cấm bao gồm: - Ngăn cản đấu thầu - Hỗ trợ tham gia đấu thầu (còn gọi là đấu thầu mang tính bổ sung) - Quay vòng thắng thầu 1.3. Cơ chế xử lý các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh a) Các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh bị cấm tuyệt đối Các thỏa thuận bị cấm tuyệt đối gồm: - Thỏa thuận ngăn cản, kìm hãm không cho doanh nghiệp khác phát triển kinh doanh; - Thỏa thuận loại bỏ khỏi thị trường những doanh nghiệp không phải là các bên của thỏa thuận; - Thông đồng để một hoặc các bên tham gia thỏa thuận thắng thầu trong việc cung cấp hàng hoá, cung ứng dịch vụ. Những thỏa thuận được quy định tại khoản 6, 7, 8 Điều 8 Luật Cạnh tranh luôn hàm chứa tính chất hạn chế cạnh tranh mà không có bất cứ một cơ sở nào để có thể biện hộ về hiệu quả của chúng đối với thị trường. Nói cách khác, ba loại thỏa thuận này là những thỏa thuận luôn mang bản chất hạn chế cạnh tranh nên chỉ cần có đủ căn cứ để kết luận các doanh nghiệp đã thiết lập nên một trong ba thỏa thuận trên là có thể kết luận đã có hành vi vi phạm pháp luật cạnh tranh. Hậu quả của nó là làm thay đổi cơ cấu cạnh tranh hiện có đang hình thành trên thị trường để duy trì, củng cố vị trí của các doanh nghiệp tham gia liên kết. b) Các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh khi các bên tham gia thỏa thuận có thị phần kết hợp trên thị trường liên quan từ 30% trở lên sẽ bị cấm Các thỏa thuận sau: - Thỏa thuận ấn định giá hàng hoá, dịch vụ một cách trực tiếp hoặc gián tiếp; - Thỏa thuận phân chia thị trường tiêu thụ, nguồn cung cấp hàng hoá, cung ứng dịch vụ; - Thỏa thuận hạn chế hoặc kiểm soát số lượng, khối lượng sản xuất, mua bán hàng hoá, dịch vụ; - Thỏa thuận hạn chế phát triển kỹ thuật, công nghệ, hạn chế đầu tư; - Thỏa thuận áp đặt cho doanh nghiệp khác điều kiện ký kết hợp đồng mua, bán hàng hoá, dịch vụ hoặc buộc doanh nghiệp khác chấp nhận các nghĩa vụ không liên quan trực tiếp đến đối tượng của hợp đồng, nếu các bên tham gia thỏa thuận có thị phần kết hợp trên thị trường liên quan từ 30% trở lên. Các thỏa thuận không thuộc ba trường hợp bị cấm tuyệt đối chỉ có thể bị cấm khi thị phần kết hợp của các doanh nghiệp tham gia thỏa thuận trên thị trường liên quan từ 30% trở lên. Thị phần là cơ sở để xác định khả năng chi phối của doanh nghiệp đối với thị trường. Theo Luật Cạnh tranh, mức thị phần trên thị trường liên quan từ 30% trở lên đã có thể trao cho doanh nghiệp sức mạnh thị trường, là khả năng tác động đến giá cả thị trường của một loại hàng hoá hoặc dịch vụ mà họ bán hoặc mua. 38
  2. c) Các trường hợp miễn trừ Theo quy định của Luật Cạnh tranh, những thỏa thuận sau đây được xếp vào đối tượng có thể được hưởng miễn trừ: - Thỏa thuận ấn định giá hàng hoá, dịch vụ một cách trực tiếp hoặc gián tiếp; - Thỏa thuận phân chia thị trường tiêu thụ, nguồn cung cấp hàng hoá, cung ứng dịch vụ; - Thỏa thuận hạn chế hoặc kiểm soát số lượng, khối lượng sản xuất, mua bán hàng hoá, dịch vụ; - Thỏa thuận hạn chế phát triển kỹ thuật, công nghệ, hạn chế đầu tư; - Thỏa thuận áp đặt cho doanh nghiệp khác điều kiện ký kết hợp đồng mua, bán hàng hoá, dịch vụ hoặc buộc doanh nghiệp khác chấp nhận các nghĩa vụ không liên quan trực tiếp đến đối tượng của hợp đồng. Các thỏa thuận nói trên sẽ được hưởng miễn trừ có thời hạn nếu như chúng được thực hiện nhằm hạ giá thành và đem lại lợi ích cho người tiêu dùng. 2. Lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, lạm dụng vị trí độc quyền 2.1. Khái niệm hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh, vị trí độc quyền Kiểm soát và xử lý các hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh, vị trí độc quyền (gọi tắt là hành vi lạm dụng) là một trong những nhiệm vụ quan trọng của pháp luật cạnh tranh nhằm bảo vệ môi trường cạnh tranh lành mạnh, không phân biệt đối xử. Đặc trưng cơ bản của chế định pháp này là đối tượng áp dụng là những doanh nghiệp, nhóm doanh nghiệp đang có vị trí thống lĩnh, doanh nghiệp có vị trí độc quyền trên thị trường. Luật Cạnh tranh năm 2004 không đưa ra định nghĩa mà liệt cụ thể các hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh, vị trí độc quyền để hạn chế cạnh tranh. Theo đó, chỉ khi doanh nghiệp, nhóm doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường, doanh nghiệp có vị trí độc quyền thực hiện những hành vi được quy định tại Điều 13 và Điều 14 Luật Cạnh tranh mới bị coi là lạm dụng vị trí thống lĩnh, vị trí độc quyền để hạn chế cạnh tranh. Với những hành vi được liệt kê trong Luật Cạnh tranh, có thể khái quát thành khái niệm sau: hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, vị trí độc quyền những hành vi do doanh nghiệp hoặc nhóm doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường, doanh nghiệp có vị trí độc quyền thực hiện nhằm củng cố vị trí thống lĩnh, duy trì vị trí độc quyền bằng cách loại bỏ doanh nghiệp khác ra khỏi thị trường; ngăn cản, kìm hãm doanh nghiệp khác không cho gia nhập thị trường, phát triển kinh doanh hoặc nhằm thu lợi nhuận độc quyền bằng cách bóc lột khách hàng. 2.2. Đặc điểm của hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh, vị trí độc quyền Dù có những khác biệt nhất định trong các quy định về hành vi lạm dụng, song pháp luật của các nước đều thống nhất rằng nhóm hành vi này có ba đặc trưng sau đây: a. Chủ thể thực hiện hành vi là doanh nghiệp hoặc nhóm doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh hoặc doanh nghiệp có vị trí độc quyền trên thị trường liên quan Vị trí thống lĩnh, vị trí độc quyền có thể được hình thành từ sự tích tụ trong quá trình cạnh tranh; từ những điều kiện tự nhiên của thị trường như: yêu cầu về quy mô hiệu quả tối thiểu, sự biến dị của sản phẩm, sự tồn tại của các rào cản gia nhập thị trường; hoặc sự bảo hộ của quyền lực Nhà nước . Vị trí thống lĩnh hoặc vị trí độc quyền đem lại cho 39
  3. doanh nghiệp quyền lực thị trường và khả năng chi phối các quan hệ trên thị trường. Theo cuốn từ điển kinh tế học hiện đại “quyền lực thị trường là khả năng của một doanh nghiệp hoặc một nhóm các doanh nghiệp trong việc tác động đến giá cả thị trường của một loại hàng hoá hoặc dịch vụ mà họ bán hoặc mua”. b. Doanh nghiệp, nhóm doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh, doanh nghiệp độc quyền đã hoặc đang thực hiện hành vi hạn chế cạnh tranh được quy định trong Luật Cạnh tranh Điều 13 Luật Cạnh tranh nghiêm cấm doanh nghiệp, nhóm doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thực hiện những hành vi hạn chế cạnh tranh sau: - Bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ dưới giá thành toàn bộ nhằm loại bỏ đối thủ cạnh tranh; - Áp đặt giá mua, giá bán hàng hóa, dịch vụ bất hợp lý hoặc ấn định giá bán lại tối thiểu gây thiệt hại cho khách hàng; - Hạn chế sản xuất, phân phối hàng hóa, dịch vụ, giới hạn thị trường, cản trở sự phát triển kỹ thuật, công nghệ gây thiệt hại cho khách hàng; - Áp đặt điều kiện thương mại khác nhau trong giao dịch như nhau nhằm tạo bất bình đẳng trong cạnh tranh; - Áp đặt điều kiện cho doanh nghiệp khác ký kết hợp đồng mua, bán hàng hóa, dịch vụ hoặc buộc doanh nghiệp khác chấp nhận các nghĩa vụ không liên quan trực tiếp đến đối tượng của hợp đồng; - Ngăn cản việc tham gia thị trường của những đối thủ cạnh tranh mới. Với các doanh nghiệp độc quyền, ngoài những hành vi trên, Điều 14 Luật Cạnh tranh còn cấm thực hiện hai hành vi sau: - Áp đặt các điều kiện bất lợi cho khách hàng; - Lợi dụng vị trí độc quyền để đơn phương hoặc hủy bỏ hợp đồng đã giao kết mà không có lý do chính đáng. Với các quy định tại Điều 13 và Điều 14 Luật Cạnh tranh, có thể kết luận rằng cơ quan có thẩm quyền chỉ có thể xử lý doanh nghiệp về hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, vị trí độc quyền để hạn chế cạnh tranh khi chứng minh đủ hai điều kiện sau: Một, doanh nghiệp, nhóm doanh nghiệp bị điều tra có vị trí thống lĩnh thị trường hoặc doanh nghiệp có vị trí độc quyền; Hai, doanh nghiệp đó đã, đang thực hiện một trong những hành vi hạn chế cạnh tranh kể trên. Do đó, nếu hành vi trên do doanh nghiệp bình thường thực hiện thì không thể kết luận đó là hành vi lạm dụng. Tương tự, doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh hoặc độc quyền thực hiện những chiến lược, những hành vi cạnh tranh không thuộc các trường hợp trên cũng không làm xuất hiện hành vi lạm dụng. Như vậy, các quy định về lạm dụng đã đưa ra một ranh giới ứng xử về cạnh tranh cho các doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường hoặc độc quyền. Các cơ quan có thẩm quyền không thể áp dụng các biện pháp xử lý nếu các doanh nghiệp chưa vượt quá giới hạn cho phép và ngược lại. Căn cứ vào các quy định hiện hành, doanh nghiệp thống lĩnh hoặc độc quyền không thể bị quy kết là đã có hành vi lạm dụng nếu thực hiện những hành vi không thuộc những trường hợp được liệt kê tại Điều 13 và Điều 14 Luật Cạnh tranh. 40
  4. c. Hậu quả của hành vi lạm dụng là làm sai lệch, cản trở hoặc giảm cạnh tranh trên thị trường liên quan Đặc trưng này cho thấy tác hại của hành vi lạm dụng đối với thị trường. Doanh nghiệp thực hiện hành vi lạm dụng nhằm duy trì, củng cố vị trí hiện có hoặc nhằm thu lợi ích độc quyền từ việc bóc lột khách hàng. Do đó, việc thực hiện hành vi có thể gây ra những thiệt hại cho một số đối tượng cụ thể, song nghiêm trọng hơn là làm suy giảm, cản trở tình trạng cạnh tranh của thị trường. Vì vậy, pháp luật của các nước đều buộc cơ quan có thẩm quyền phải chứng minh hành vi lạm dụng đã, đang hoặc có thể sẽ gây hậu quả ngăn cản hay hạn chế cạnh tranh đáng kể trên thị trường. Khi điều tra vụ việc về hành vi lạm dụng, cơ quan có thẩm quyền chỉ cần chứng minh hai nội dung là: Một, doanh nghiệp bị điều tra có vị trí thống lĩnh hoặc vị trí độc quyền; Hai, doanh nghiệp bị điều tra đã hoặc đang thực hiện hành vi lạm dụng được quy định tại Điều 13, Điều 14 Luật Cạnh tranh. Hậu quả hạn chế cạnh tranh đã được chuyển hóa trong những dấu hiệu pháp lý của từng hành vi lạm dụng. 2.2. Các hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, vị trí độc quyền Điều 13, 14 Luật Cạnh tranh liệt kê các hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh, vị trí độc quyền để hạn chế cạnh tranh. a) Áp đặt giá mua giá bán hàng hoá, dịch vụ bất hợp lư hoặc ấn định giá bán lại tối thiểu gây thiệt hại cho khách hàng Hành vi áp đặt giá mua, giá bán bất hợp lý hoặc ấn định giá bán lại gây thiệt hại cho khách hàng được coi là điển hình cho nhóm hành vi lạm dụng mang tính bóc lột. Với hành vi này, khách hàng đã phải chịu thiệt hại bởi giá mà họ phải mua quá cao so với giá trị thực tế của sản phẩm; hoặc phải bán với giá thấp hơn giá thành của sản phẩm. Giá mua, bán sản phẩm trên thị trường không được hình thành từ cạnh tranh mà do các doanh nghiệp thống lĩnh hoặc độc quyền ấn định. Mức chênh lệch giữa giá được ấn định với giá cạnh tranh (giả định) là khoản lợi ích độc quyền mà doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh, vị trí độc quyền có được. Theo Luật Cạnh tranh và Nghị định số 116/2005/NĐ-CP, nhóm hành vi này có ba loại vi phạm cụ thể sau đây: - Hành vi áp đặt giá mua hàng hoá dịch vụ bất hợp lý gây thiệt hại cho khách hàng, là “việc doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh hoặc độc quyền trên thị trường liên quan khi mua hàng hoá, dịch vụ đã áp đặt giá mua được đặt ra thấp hơn giá thành sản xuất hàng hoá, dịch vụ trong điều kiện chất lượng hàng hóa không suy giảm và thị trường không có biến động về giá bán buôn của hàng hóa, giá cung ứng dịch vụ - Hành vi áp đặt giá bán hàng hoá, dịch vụ được coi là bất hợp lý gây thiệt hại cho khách hàng nếu cầu về hàng hoá, dịch vụ không tăng đột biến tới mức vượt quá công suất thiết kế hoặc năng lực sản xuất của doanh nghiệp và hành vi đó xảy ra trong hai trường hợp sau đây: Giá bán lẻ trung bình tại cùng thị trường liên quan trong thời gian tối thiểu 60 ngày liên tiếp được đặt ra tăng một lần vượt quá 5%; hoặc tăng nhiều lần với tổng mức tăng vượt quá 5% so với giá đã bán trước khoảng thời gian tối thiểu đó; 41
  5. Không có biến động bất thường làm tăng giá thành sản xuất của hàng hoá, dịch vụ đó vượt quá 5% trong thời gian tối thiểu 60 ngày liên tiếp trước khi bắt đầu tăng giá. - Áp đặt giá bán lại tối thiểu gây thiệt hại cho khách hàng là việc doanh nghiệp khống chế không cho phép các nhà phân phối, các nhà bán lẻ bán lại hàng hoá thấp hơn mức đã quy định trước. b) Hạn chế sản xuất, phân phối hàng hoá, dịch vụ bất hợp lý, giới hạn thị trường cản trở phát triển kỹ thuật, công nghệ gây thiệt hại cho khách hàng Là người nắm giữ thị phần lớn, doanh nghiệp thống lĩnh thị trường, là đại diện cho năng lực, quy mô sản xuất, mua bán của thị trường liên quan, doanh nghiệp độc quyền sẽ đại diện cho khả năng cung hoặc cầu của thị trường liên quan, các quyết định về lượng hàng hóa, dịch vụ được sản xuất, mua, bán sẽ ảnh hưởng đến mức độ thoả mãn nhu cầu cho khách hàng. Do ở vào địa vị thấp hơn trong giao dịch bởi quyền lựa chọn bị hạn chế, nên khi bị vi phạm quyền lợi, khách hàng rất khó phản ứng lại vì không thể sử dụng các cơ chế trừng phạt tự nhiên của thị trường để răn đe doanh nghiệp. Hành vi hạn chế sản xuất, phân phối sản phẩm gây thiệt hại cho khách hàng là hành vi giảm khả năng cung hàng hoá, dịch vụ một cách giả tạo để lũng đoạn thị trường, làm biến động quan hệ cung - cầu theo hướng có lợi cho doanh nghiệp trong giao dịch với khách hàng. Hành vi này thường được thực hiện bằng một trong 3 cách thức sau đây: - Cắt, giảm lượng cung ứng hàng hóa, dịch vụ trên thị trường liên quan so với lượng hàng hóa, dịch vụ cung ứng trước đó trong điều kiện không có biến động lớn về quan hệ cung cầu; không có khủng hoảng kinh tế, thiên tai, địch họa; không có sự cố lớn về kỹ thuật; hoặc không có tình trạng khẩn cấp; - Ấn định lượng cung ứng hàng hóa, dịch vụ ở mức đủ để tạo sự khan hiếm trên thị trường; - Găm hàng lại không bán để gây mất ổn định thị trường. Do đó, để xác định hành vi này, cơ quan có thẩm quyền cần chứng minh rằng doanh nghiệp đã có dấu hiệu đầu cơ hàng hóa (có sản xuất hoặc có thu mua hàng hóa nhưng chỉ bán với số lượng ít hơn so với nhu cầu thị trường) nhằm gây mất ổn định thị trường. Ba loại trường hợp vi phạm trên cho thấy doanh nghiệp đã tự giới hạn năng lực sản suất, hoặc giới hạn lượng hàng hóa cung cấp thấp hơn so với nhu cầu trên thị trường. Các dấu hiệu khách quan của hành vi đã chứng minh rằng doanh nghiệp đang lạm dụng vị trí thống lĩnh, vị trí độc quyền để chi phối quan hệ cung - cầu của thị trường, làm mất cân đối cung - cầu nhằm chi phối các điều kiện mua, bán với khách hàng. Hậu quả mà hành vi này gây ra cho khách hàng không chỉ là nhu cầu của họ về hàng hoá, dịch vụ không được đáp ứng đầy đủ theo đúng khả năng thực có của thị trường mà còn là những điều kiện mua bán như giá cả, phương thức phân phối, cung ứng sẽ thay đổi theo hướng bất lợi cho khách hàng. Việc giới hạn thị trường gây thiệt hại bị coi là vi phạm pháp luật cạnh tranh khi doanh nghiệp có sức mạnh thị trường thực hiện một trong hai hành vi sau đây: Một, chỉ cung ứng hàng hoá, dịch vụ trong một khu vực địa lý nhất định. 42
  6. Hai, chỉ mua hàng hóa, dịch vụ từ một hoặc một số nguồn cung nhất định mà không có lý do chính đáng. Hành vi hạn chế sự phát triển kỹ thuật, công nghệ làm thiệt hại cho khách hàng là việc doanh nghiệp thực hiện những hành vi nhằm cản trở việc nghiên cứu phát triển kỹ thuật, công nghệ hoặc ngăn cản việc ứng dụng tiến bộ khoa hoặc kỹ thuật vào hoạt động kinh doanh. Cản trở sự phát triển kỹ thuật, công nghệ làm thiệt hại cho khách hàng bao gồm các loại hành vi sau đây: Một là, mua sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp để tiêu hủy hoặc không sử dụng. Để xác định hành vi, cơ quan có thẩm quyền cần chứng minh hai điều kiện: - Doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh hoặc độc quyền đã tổ chức mua sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp của các chủ thể khác; và - Có bằng chứng cho thấy doanh nghiệp tiêu hủy hoặc không sử dụng những đối tượng trên. Như vậy, doanh nghiệp thực hiện hành vi không phải là tác giả mà là người mua lại sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp từ các chủ thể khác. Việc tiêu hủy hoặc không sử dụng những đối tượng trên cho thấy doanh nghiệp thực hiện hành vi không có ý định khai thác lợi ích của sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp để phục vụ cho hoạt động kinh doanh mà chỉ lợi dụng quyền được bảo hộ để ngăn cản các doanh nghiệp khác không được tiếp cận và sử dụng những đối tượng đó. Hành vi này bị coi là hạn chế cạnh tranh bởi nó đã cản trở khả năng ứng dụng của các đối tượng thuộc sở hữu công nghiệp vào hoạt động kinh doanh và sự phát triển của nền kinh tế. Hành vi mua lại các phát minh, sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp sẽ xác lập tư cách chủ sở hữu cho doanh nghiệp được pháp luật bảo hộ quyền sở hữu, sử dụng những đối tượng nói trên. Song, doanh nghiệp không có quyền tuyệt đối và vô hạn. Việc doanh nghiệp định đọat bằng cách không sử dụng hoặc tiêu hủy đã ngăn chặn khả năng kế thừa thành tựu khoa học, công nghệ của các thế hệ sau trong sự phát triển chung của xã hội, làm cho những lợi ích công chúng có thể được thụ hưởng từ việc sử dụng các giải pháp hữu ích, sáng chế, phát minh sẽ bị ngăn chặn, làm giảm khả năng phát triển về năng lực cạnh tranh của nền kinh tế. Vì vậy, dù đã xác lập tư cách chủ sở hữu đối với các đối tượng thuộc quyền sở hữu công nghiệp, song pháp luật không thể bảo hộ, che chắn cho những toan tính không tử tế nói trên của doanh nghiệp có quyền lực thị trường. Hai là, đe dọa hoặc ép buộc người đang nghiên cứu phát triển kỹ thuật, công nghệ phải ngừng hoặc hủy bỏ việc nghiên cứu đó. Với hành vi này, cơ quan có thẩm quyền cần xác định được chủ thể đang tiến hành nghiên cứu phát triển kỹ thuật công nghệ và chứng minh được rằng doanh nghiệp đã có hành vi đe dọa, ép buộc những chủ thể đó phải ngừng hoặc hủy bỏ việc nghiên cứu. Lý thuyết cạnh tranh đã chỉ rõ, vì mục đích lợi nhuận, các doanh nghiệp đã đua nhau phục vụ khách hàng một cách tốt nhất, kể cả không ngừng nghiên cứu, ứng dụng khoa học để nâng cao chất lượng sản phẩm, nâng cao hiệu quả sản xuất của doanh nghiệp. Nhờ có cạnh tranh, các chủ thể trên thị trường (bao gồm doanh nghiệp và người tiêu dùng) có thể hưởng được thành quả của sự phát triển kỹ thuật công nghệ. Sự tồn tại 43
  7. của doanh nghiệp thống lĩnh trên thị trường làm giảm sức ép cạnh tranh, làm cho động lực phát triển kỹ thuật sẽ giảm, xâm hại nghiêm trọng đến quyền được hưởng thụ của xã hội thông qua các khách hàng. c) Hành vi áp đặt các điều kiện thương mại khác nhau cho các giao dịch như nhau nhằm tạo sự bất bình đẳng cho khách hàng (còn gọi là hành vi phân biệt đối xử trong thương mại) Điều 29 Nghị định số 116/2005/NĐ-CP quy định việc áp đặt điều kiện thương mại khác nhau trong điều kiện giao dịch như nhau nhằm tạo bất bình đẳng trong cạnh tranh là hành vi phân biệt đối xử đối với các doanh nghiệp về điều kiện mua, bán, giá cả, thời hạn thanh toán, số lượng trong những giao dịch mua, bán hàng hoá, dịch vụ tương tự về mặt giá trị hoặc tính chất hàng hoá, dịch vụ để đặt một hoặc một số doanh nghiệp vào vị trí cạnh tranh có lợi hơn so với doanh nghiệp khác. Quy định trên cho thấy cấu thành pháp lý của hành vi này bao gồm các yếu tố sau đây: Thứ nhất, doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh đã áp dụng các điều kiện mua, bán, giá cả, thời hạn thanh toán, số lượng khác nhau trong những giao dịch như nhau. Thứ hai, hành vi gây ra tình trạng cạnh tranh bất bình đẳng giữa các khách hàng. Xét về mặt hậu quả, hành vi phân biệt đối xử không xâm hại đến đối thủ cạnh tranh trực tiếp của doanh nghiệp vi phạm mà nó bóp méo diện mạo cạnh tranh giữa các khách hàng của doanh nghiệp. Do đó, các khách hàng của doanh nghiệp phải là những chủ thể kinh doanh và hoạt động trên cùng thị trường liên quan với nhau. Nghị định số 116/2005/NĐ-CP quy định sự bất bình đẳng là tình trạng một một số doanh nghiệp có được vị trí có lợi hơn so với doanh nghiệp khác. d) Hành vi ngăn cản việc gia nhập thị trường của đối thủ cạnh tranh mới Ngăn cản việc gia nhập thị trường của những đối thủ cạnh tranh mới là hành vi tạo ra những rào cản về giá hoặc về nguồn tiêu thụ, nguồn nguyên vật liệu trên thị trường liên quan. Việc xác định hành vi ngăn cản cần phải làm rõ một số vấn đề sau đây: Thứ nhất, cần xác định rõ đối thủ cạnh tranh mới. Đối thủ cạnh tranh mới là doanh nghiệp đang tìm cách tham gia thị trường115 (có thể gọi là doanh nghiệp mới). Cần phân biệt thuật ngữ doanh nghiệp mới và doanh nghiệp mới thành lập. Thuật ngữ doanh nghiệp mới trong Luật Cạnh tranh mô tả những doanh nghiệp đang tìm cách tham gia vào một thị trường cụ thể, bao gồm: - Các doanh nghiệp tiềm năng, tức là chưa được thành lập theo pháp luật về doanh nghiệp; - Đã được thành lập và hoạt động ở một thị trường khác, đang có ý định tham gia thị trường tồn tại rào cản gia nhập. Thuật ngữ doanh nghiệp mới thành lập được sử dụng rộng rãi trong pháp luật về doanh nghiệp, đặc biệt là trong pháp luật về thủ tục pháp lý đăng ký kinh doanh, để diễn tả những doanh nghiệp vừa hoàn tất các thủ tục đăng ký kinh doanh cần thiết để được công quyền thừa nhận sự tồn tại và hoạt động hợp pháp. Như vậy, việc làm rõ doanh nghiệp mới trong Luật Cạnh tranh không phải là việc doanh nghiệp đó đã được thành lập hay chưa, mà phải làm rõ nhu cầu đầu tư mới trên thị trường liên quan. 44