Giáo trình Luật an sinh xã hội (Phần 2)
Khái niệm ưu đãi xã hội
Việt Nam trong tiến trình xây dựng và phát triển đất nước bên cạnh việc chú trọng đẩy
mạnh về kinh tế thì Việt Nam cũng quan tâm giải quyết các vấn đề xã hội, đảm bảo bình ổn xã
hội trong đó chăm lo đến lực lượng lớn những người đã cống hiến cả cuộc đời cho sự nghiệp
cách mạng, bảo vệ tổ quốc là vấn đề cấp thiết hiện nay.
Có thể nói, ưu đãi xã hội là một vấn đề quan trọng thu hút sự quan tâm của Đảng và nhà
nước ta, nó không những đã thể hiện trách nhiệm của các cấp các ngành mà còn phản ánh truyền
thống đạo lý cao đẹp của nhân dân ta đối với những người có công đóng góp cho đất nước.
Có rất nhiều quan điểm khác nhau khi bàn về thuật ngữ người có công.
Theo nghĩa rộng, người có công là những người không phân biệt tôn giáo, giới tính, tín
ngưỡng, dân tộc, nam nữ, tuổi tác, đã tự nguyện cống hiến sức lực, tài năng trí tuệ, có người hy
sinh cả cuộc đời mình cho sự nghiệp của dân tộc. Họ là người có thành tích đóng góp hoặc những
cống hiến xuất sắc phục vụ cho lợi ích của dân tộc được cơ quan nhà nước có thẩm quyền công
nhận theo quy dịnh của pháp luật. Nếu hiểu theo nghĩa rộng thì đối tượng ưu đãi người có công
bao gồm các nhóm sau:
+ Người tham gia cách mạng, giúp đỡ cách mạng hoặc hy sinh vì sự nghiệp cách mạng.
+ Người có những đóng góp tài năng, trí tuệ trong văn hoá nghệ thuật, lao động, sản xuất
xây dựng và bảo vệ đất nước như: anh hùng lao động, nhà giáo nhân dân, thầy thuốc nhân dân,
nghệ sỹ nhân dân…
Theo nghĩa hẹp, người có công là người không phân biệt tôn giáo, tín ngưỡng, dân tộc,
nam nữ… có những đóng góp, những cống hiến xuất sắc trong thời kỳ trước cách mạng tháng 8
năm 1945, trong các cuộc kháng chiến giải phóng dân tộc và bảo vệ tổ quốc, được các cơ quan, tổ
chức có thẩm quyền công nhận theo quy định của pháp luật.
Như vậy, đối tượng người có công dù tiếp cận theo nghĩa rộng hay nghĩa hẹp thì họ đều
là những người có thành tích xuất sắc đóng góp hoặc cống hiến cho đất nước do đó họ được nhà
nước đãi ngộ trên nhiều lĩnh vực khác nhau như về y tế, giáo dục, chăm sóc sức khoẻ, ưu đãi về
việc làm và bảo đảm việc làm…
Có thể nói, ưu đãi xã hội là một vấn đề quan trọng thể hiện trách nhiệm của Đảng và nhà
nước ta.
Dưới góc độ kinh tế, ưu đãi xã hội là sự đãi ngộ về mặt vật chất cũng như tinh thần của
nhà nước đối với người có công.
Dưới góc độ pháp lý, ưu đãi xã hội là hệ thống các quy định của nhà nước về các hình
thức, nội dung, biện pháp chăm sóc, đãi ngộ và đảm bảo điều kiện vật chất và tinh thần của
những người hoạt động cách mạng, liệt sĩ và gia đình liệt sĩ, thương binh, bệnh binh, người hoạt
động kháng chiến, người có công giúp đỡ cách mạng, anh hùng lực lượng vũ trang, bà mẹ Việt
Nam anh hùng, anh hùng lao động.
Việt Nam trong tiến trình xây dựng và phát triển đất nước bên cạnh việc chú trọng đẩy
mạnh về kinh tế thì Việt Nam cũng quan tâm giải quyết các vấn đề xã hội, đảm bảo bình ổn xã
hội trong đó chăm lo đến lực lượng lớn những người đã cống hiến cả cuộc đời cho sự nghiệp
cách mạng, bảo vệ tổ quốc là vấn đề cấp thiết hiện nay.
Có thể nói, ưu đãi xã hội là một vấn đề quan trọng thu hút sự quan tâm của Đảng và nhà
nước ta, nó không những đã thể hiện trách nhiệm của các cấp các ngành mà còn phản ánh truyền
thống đạo lý cao đẹp của nhân dân ta đối với những người có công đóng góp cho đất nước.
Có rất nhiều quan điểm khác nhau khi bàn về thuật ngữ người có công.
Theo nghĩa rộng, người có công là những người không phân biệt tôn giáo, giới tính, tín
ngưỡng, dân tộc, nam nữ, tuổi tác, đã tự nguyện cống hiến sức lực, tài năng trí tuệ, có người hy
sinh cả cuộc đời mình cho sự nghiệp của dân tộc. Họ là người có thành tích đóng góp hoặc những
cống hiến xuất sắc phục vụ cho lợi ích của dân tộc được cơ quan nhà nước có thẩm quyền công
nhận theo quy dịnh của pháp luật. Nếu hiểu theo nghĩa rộng thì đối tượng ưu đãi người có công
bao gồm các nhóm sau:
+ Người tham gia cách mạng, giúp đỡ cách mạng hoặc hy sinh vì sự nghiệp cách mạng.
+ Người có những đóng góp tài năng, trí tuệ trong văn hoá nghệ thuật, lao động, sản xuất
xây dựng và bảo vệ đất nước như: anh hùng lao động, nhà giáo nhân dân, thầy thuốc nhân dân,
nghệ sỹ nhân dân…
Theo nghĩa hẹp, người có công là người không phân biệt tôn giáo, tín ngưỡng, dân tộc,
nam nữ… có những đóng góp, những cống hiến xuất sắc trong thời kỳ trước cách mạng tháng 8
năm 1945, trong các cuộc kháng chiến giải phóng dân tộc và bảo vệ tổ quốc, được các cơ quan, tổ
chức có thẩm quyền công nhận theo quy định của pháp luật.
Như vậy, đối tượng người có công dù tiếp cận theo nghĩa rộng hay nghĩa hẹp thì họ đều
là những người có thành tích xuất sắc đóng góp hoặc cống hiến cho đất nước do đó họ được nhà
nước đãi ngộ trên nhiều lĩnh vực khác nhau như về y tế, giáo dục, chăm sóc sức khoẻ, ưu đãi về
việc làm và bảo đảm việc làm…
Có thể nói, ưu đãi xã hội là một vấn đề quan trọng thể hiện trách nhiệm của Đảng và nhà
nước ta.
Dưới góc độ kinh tế, ưu đãi xã hội là sự đãi ngộ về mặt vật chất cũng như tinh thần của
nhà nước đối với người có công.
Dưới góc độ pháp lý, ưu đãi xã hội là hệ thống các quy định của nhà nước về các hình
thức, nội dung, biện pháp chăm sóc, đãi ngộ và đảm bảo điều kiện vật chất và tinh thần của
những người hoạt động cách mạng, liệt sĩ và gia đình liệt sĩ, thương binh, bệnh binh, người hoạt
động kháng chiến, người có công giúp đỡ cách mạng, anh hùng lực lượng vũ trang, bà mẹ Việt
Nam anh hùng, anh hùng lao động.
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Giáo trình Luật an sinh xã hội (Phần 2)", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
- giao_trinh_luat_an_sinh_xa_hoi_phan_2.pdf
Nội dung text: Giáo trình Luật an sinh xã hội (Phần 2)
- Người có công giúp đõ cách mạng trong kháng chiến được nhà nước tặng thưởng “Huân chương kháng chiến”, đã được xác nhận từ trước ngày 01/01/1995. b. Chế độ Người có công giúp đỡ cách mạng được tặng Kỷ niệm chương "Tổ quốc ghi công" hoặc Bằng "Có công với nước" và người có công giúp đỡ cách mạng trong gia đình được tặng Kỷ niệm chương "Tổ quốc ghi công" hoặc Bằng "Có công với nước" được hưởng trợ cấp hàng tháng và các chế độ ưu đãi khác như đối với thân nhân liệt sĩ quy định tại Pháp lệnh này. * Người có công giúp đỡ cách mạng được tặng Huân chương kháng chiến và người có công giúp đỡ cách mạng trong gia đình được tặng Huân chương kháng chiến được hưởng trợ cấp hàng tháng; Nhà nước mua bảo hiểm y tế; khi chết thì người tổ chức mai táng được hưởng một khoản trợ cấp và mai táng phí. * Người có công giúp đỡ cách mạng được tặng Huy chương kháng chiến và người có công giúp đỡ cách mạng trong gia đình được tặng Huy chương kháng chiến được hưởng trợ cấp một lần; Nhà nước mua bảo hiểm y tế; khi chết thì người tổ chức mai táng được nhận mai táng phí. * Chính phủ quy định cụ thể điều kiện hưởng chế độ ưu đãi đối với người có công giúp đỡ cách mạng trong gia đình được tặng Kỷ niệm chương "Tổ quốc ghi công", Bằng "Có công với nước", Huân chương kháng chiến hoặc Huy chương kháng chiến. * Người đã được công nhận và hưởng các chế độ ưu đãi quy định tại Ðiều 9, Ðiều 10 hoặc Ðiều 30 thì không thuộc đối tượng áp dụng của Ðiều này. Người có công giúp đõ cách mạng được hưởng các chế độ ưu đãi như sau: - Người có công giúp đỡ cách mạng trước Cách mạng tháng 8 năm 1945 hưởng trợ cấp ưu đãi hàng tháng mức trợ cấp 470000 đồng. - Người có công giúp đỡ cách mạng trước Cách mạng tháng 8 năm 1945 hưởng trợ cấp nuôi dưỡng hàng tháng mức trợ cấp 794000 đồng. Người có công giúp đỡ cách mạng trong kháng chiến hưởng trợ cấp hàng tháng là 278000 đồng. Người có công giúp đỡ cách mạng trong kháng chiến hưởng trợ cấp nuôi dưỡng hàng tháng 622.000 đồng. 10. Chế độ ưu đãi đối với người tham gia kháng chiến và con đẻ của họ bị nhiễm chất độc hoá học do Mỹ sử dụng trong chiến tranh Việt Nam a. Đối tượng được hưởng chế độ ưu đãi Những người được hưởng chế độ khi họ bị nhiễm chất độc hoá học do Mỹ sử dụng trong chiến tranh Việt Nam gồm người bị hậu quả trực tiếp và người bị hậu quả gián tiếp của chất độc hoá học. - Thứ nhất, người tham gia kháng chiến bị hậu quả trực tiếp của chất độc hoá học khi tham gia công tác, chiến đấu, phục vụ chiến đấu tại các vùng bị Mỹ sử dụng chất độc hoá học gồm: + Cán bộ, chiến sĩ, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân viên quốc phòng thuộc Quân đội nhân dân Việt Nam. + Cán bộ chiến sĩ, công nhân viên thuộc lực lượng công an nhân dân. + Công an, dân quân du kích, tự vệ địa phương. + Cán bộ, công nhân viên chức các cơ quan Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội cách mạng. + Cán bộ thôn ấp, xã, phường trong hệ thống Đảng, chính quyền, mặt trận, đoàn thể chính trị - xã hội, cách mạng. + Thanh niên xung phong tập trung theo Quyết định số 104/1999/ QĐ-TTg ngày 14/4/1999 của Thủ tướng Chính Phủ. 57
- + Dân công hoả tuyến. - Thứ hai, người bị hậu quả gián tiếp của chất độc hoá học bao gồm con đẻ còn sống của những đối tượng trên. b. Điều kiện hưởng trợ cấp Đối với người tham gia kháng chiến phải có đủ 3 điều kiện sau: + Đã tham gia công tác, chiến đấu, phục vụ chiến đấu tại vùng bị Mỹ sử dụng chất độc hoá học (từ nam vĩ tuyến 17 trở vào) trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước giai đoạn từ tháng 8/1961 đến ngày 30/04/1975. + Bị mắc bệnh hiểm nghèo do nhiễm chất độc hoá học không còn khả năng lao động hoặc bị mắc bệnh do nhiễm chất độc hoá học, bị suy giảm khả năng lao động. + Chưa được hưởng trợ cấp thương binh, bệnh binh, người hưởng chính sách như thương binh. Đối với con đẻ còn sống của người tham gia kháng chiến thuộc mức độ sau: + Bị dị dạng, dị tật nặng, không có khả năng lao động, không tự lực được trong sinh hoạt. + Bị dị dạng, dị tật, không có khả năng lao động nhưng còn tự lực được trong sinh hoạt. c. Chế độ hưởng trợ cấp Các chế độ ưu đãi đối với người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học bao gồm: + Trợ cấp hàng tháng căn cứ vào mức độ suy giảm khả năng lao động; + Bảo hiểm y tế; điều dưỡng phục hồi sức khỏe, phục hồi chức năng lao động; cấp phương tiện trợ giúp, dụng cụ chỉnh hình căn cứ vào tình trạng bệnh tật của từng người và khả năng của Nhà nước; + Ưu tiên giao hoặc thuê đất, mặt nước, mặt nước biển, vay vốn ưu đãi để sản xuất, miễn hoặc giảm thuế, miễn hoặc giảm nghĩa vụ lao động công ích theo quy định của pháp luật; được hỗ trợ cải thiện nhà ở căn cứ vào hoàn cảnh của từng người, khả năng của Nhà nước và địa phương; + Khi người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học chết thì người tổ chức mai táng được hưởng một khoản trợ cấp và mai táng phí. + Chính phủ quy định cụ thể điều kiện, tiêu chuẩn, chế độ ưu đãi đối với người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học. + Con đẻ của người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học là người được cơ quan có thẩm quyền công nhận bị dị dạng, dị tật, suy giảm khả năng tự lực trong sinh hoạt hoặc lao động do hậu quả của chất độc hóa học. + Các chế độ ưu đãi đối với con đẻ của người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học bao gồm: + Trợ cấp hàng tháng căn cứ vào mức độ suy giảm khả năng tự lực trong sinh hoạt; + Bảo hiểm y tế; cấp phương tiện trợ giúp, dụng cụ chỉnh hình cần thiết căn cứ vào tình trạng bệnh tật; + Ưu tiên trong tuyển sinh và tạo việc làm, ưu đãi trong giáo dục và đào tạo. + Khi con đẻ của người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học đang hưởng trợ cấp hàng tháng chết thì người tổ chức mai táng được hưởng một khoản trợ cấp và mai táng phí. + Các đối tượng trên được hưởng chế độ ưu đãi sau: Đối tượng hưởng chế độ trợ cấp hàng tháng Mức trợ cấp - Người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hoá học: + Bị mắc bệnh suy giảm khả năng lao động từ 81% trở lên 785000 đồng 58
- + Bị mắc bệnh suy giảm khả năng lao động từ 80% trở xuống 495000 đồng + Thương binh, thương binh loại B, bệnh binh, người hưởng chế độ 495000 đồng mất sức lao động bị nhiễm chất độc hóa học - Con đẻ còn sống của người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học: + Bị dị dạng, dị tật nặng, không tự lực được trong sinh hoạt 470000 đồng + Bị dị dạng, dị tật, suy giảm khả năng tự lực trong sinh hoạt 238000 đồng 11. Chế độ ưu đãi đối với quân nhân, cán bộ, thanh niên xung phong trong kháng chiến a. Chế độ ưu đãi đối với quân nhân, cán bộ trong kháng chiến * Đối tượng hưởng: Quân nhân, cán bộ trong kháng chiến là đối tượng hưởng chế độ ưu đãi trong các trường hợp sau: + Quân nhân, cán bộ của cơ quan Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên, tổ chức xã hội hưởng lương từ ngân sách nhà nước khi đi chiến trường B, C, K, trong thời kỳ chống Mỹ cứu nước không có thân nhân phải trực tiếp nuôi dưỡng. + Sĩ quan, cán bộ đi xây dựng đường dây 559 trước khi có chế độ tiền lương năm 1960. + Quân nhân, cán bộ đã thoát ly được Đảng cử ở lại Miền Nam hoạt động cách mạng sau Hiệp định Giơnevơ năm 1954 ( kể cả cán bộ đã thoát ly thuộc diện đi tập kết nhưng do điều kiện khách quan không đi được, ở lại miền Nam tiếp tục hoạt động cách mạng.) + Quân nhân, cán bộ được Đảng cử đi làm nhiệm vụ quốc tế tại Lào, Cam puchia sau Hiệp định Giơnevơ năm 1954. + Các đối tượng trên nếu đã từ trần hoặc hy sinh. * Chế độ hưởng: Các đối tượng trên hoặc thân nhân của các đối tượng trên được hưởng chế độ trợ cấp một lần như sau: + Đối với những người có thời gian chiến đấu, công tác tại chiến trường từ hai năm trở xuống, mức hưởng chế độ một lần là một triệu đồng. + Đối với những người có thời gian chiến đấu, công tác tại chiến trường trên hai năm được hưởng trợ cấp một lần tính theo số năm công tác chiến đấu cứ mỗi năm công tác chiến đấu tại chiến trường được hưởng 500000 đồng. b. Chế độ ưu đãi đối với thanh niên xung phong trong chiến đấu * Đối tượng hưởng chế độ ưu đãi Theo Quyết định số 104/1999/QĐ-TTg ngày 14/4/1999; Thông tư 16/1999/TTLT- BLĐTBXH-TUĐTNCSHCM ngày 6/7/1999 và Thông tư số 10/2001/TTLT-BLĐTBXH- TUĐTNCSHCM ngày 31.5.2001 thì thanh niên xung phong trong kháng chiến bao gồm các đối tượng sau: Thanh niên xung phong tập trung tham gia kháng chiến trong thời gian từ ngày 15/7/1950 đến ngày 30/4/1975 kể cả thanh niên xung phong làm nhiệm vụ khắc phục hậu quả chiến tranh, xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc thời kỳ 1955-1964, đã hoàn thành nhiệm vụ trở về gia đình hoặc đã hy sinh trong khi làm nhiệm vụ. Chú ý: Các trường hợp sau không được coi là thanh niên xung phong trong kháng chiến: + Dân công hoả tuyến, dân công thời chiến. + Công nhân vận tải phục vụ thời chiến. + Người dân thực hiện nghĩa vụ lao động tại địa phương. + Những thanh niên xung phong bị kết án tù trên 5 năm. + Những trường hợp tự bản thân thanh niên xung phong gây nên bị thương hoặc chết. + Thanh niên xung phong thời ký sau 30/4/1975. 59
- * Chế độ hưởng trợ cấp + Trong thời gian làm nhiệm vụ bị thương, có vết thương thực thể hoặc hy sinh, được xác nhận là thương binh, liệt sĩ và gia đình liệt sĩ. + Người không còn khả năng lao động, hiện sống cô đơn không nơi nương tựa, không có chồng hoặc vợ, không có thân nhân đảm bảo việc nuôi dưỡng hoặc có người thân nhưng người thân này cũng thực sự gặp hoàn cảnh khó khăn thì được xét hưởng trợ cấp với mức tương đương 12 kg gạo (theo giá thời điểm của thị trường địa phương) do ngân sách địa phương bảo đảm và được xét hưởng trợ cấp một lần bằng 1.500.000 đồng/ người do ngân sách Trung ương đảm bảo. + Người còn nơi nương tựa gặp một trong những hoàn cảnh sau thì được xét trợ cấp một lần bằng 1500000 đồng/ người do ngân sách Trung ương bảo đảm. . Người bị ốm đau kéo dài. . Người không còn khả năng lao động. . Người thuộc diện hộ nghèo (chuẩn nghèo theo Quyết định số 1143/2000/QĐ-LĐTBXH ngày 1.11.2000). B. CHẾ ĐỘ ƯU ĐÃI KHÁC 1. Chế độ ưu đãi về chăm sóc sức khoẻ Chăm sóc sức khoẻ là một trong những nhu cầu thiết yếu và quan trọng đối với người có công. Pháp luật quy định những người có công nếu không phải là người hưởng lương, hưởng bảo hiểm xã hội thì được nhà nước mua bảo hiểm y tế, bệnh viện dân y hoặc bệnh viện quân đội. Ngoài ra, nhà nước và xã hội còn thực hiện các hoạt động khác để chăm sóc đời sống cho người có công như: thành lập các trung tâm điều dưỡng, trung tâm chỉnh hình và phục hồi chức năng cho thương binh 2. Chế độ ưu đãi về giáo dục và đào tạo Đảng và Nhà nước ta đã quan tâm chăm sóc đến đời sống người có công và thân nhân của họ trên các lĩnh vực khác nhau đặc biệt là chế độ ưu đãi về giáo dục đào tạo. Pháp luật ưu đãi người có công quy định đối tượng được hưởng trợ cấp, điều kiện hưởng trợ cấp, phụ cấp và chế độ ưu đãi cụ thể. Để tạo điều kiện hỗ trợ về gioá dục và đào tạo, tuỳ từng đối tượng mà nhà nước có chế độ đãi ngộ phù hợp. đối với con liệt sĩ, con thương binh, con bệnh binh và con của người hưởng chính sách như thương binh tuỳ mức độ suy giảm khả năng lao động được ưu tiên trong tuyển sinh và xét tốt nghiệp; được trợ cấp một lần; được miễn các khoản đóng góp xây dựng trường, sở; được miễn, giảm học phí. Đối với anh hùng lực lượng vũ trang, anh hùng lao động, thương binh, người hưởng chính sách như thương binh, con của liệt sĩ, con của thương binh, con bệnh binh và con người hưởng chính sách như thương binh được xếp vào nhóm ưu tiên cao trong tuyển chọ, xét lên lớp, thi kiểm tra ở cuối năm học, chuyển giai đoạn trong đào tạo, được trợ cấp một lần, được miễn giảm học phí Đối với anh hùng lực lượng vũ trang, anh hùng lao động, thương binh, người hưởng chính sách như thương binh, con của liệt sĩ, con của người hoạt động cách mạng trước năm 1945, con của người hoạt động cách mạng trước tháng 8 năm 1945, con của bà mẹ Việt Nam anh hùng, con của anh hùng lực lượng vũ trang, con của anh hùng lao động, con thương binh, con bệnh binh và con của người hưởng chính sách như thương binh bị mất sức lao động từ 61% trở lên được hưởng trợ cấp hàng tháng mức 292000 đồng/người/tháng. 3. Chế độ ưu đãi về nhà ở, giải quyết việc làm, hỗ trợ người có công với cách mạng ổn định đời sống và phát triển kinh tế gia đình Đối với vấn đề giải quyết đất ở hoặc hỗ trợ để có nhà ở cho người có công nhà nước ta đã ban hành rất nhiều Quyết định và Thông tư để điều chỉnh vấn đề này như: + Quyết định số 118/TTg ngày 27.2.1996 của Thủ tướng Chính Phủ về việc hỗ trợ người có công với cách mạng cải thiện nhà ở. 60
- + Quyết định số 20/QĐ-TTg ngày 3.2.2000 của Thủ tướng Chính Phủ về việc hỗ trợ người hoạt động cách mạng trước tháng 8 năm 1945 cải thiện nhà ở. + Thông tư 63/2000/TT-BTC ngày 29.6.2000 của Bộ Tài chính hướng dẫn về cấp phát kinh phí thực hiện Quyết định số 20/2000/QĐ-TTg ngày 3.2.2000. Ngoài ra, nhà nước còn quy định các cấp, các ngành, tổ chức kinh tế-xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và mọi người có trách nhiệm tham gia và vận động phong trào xây dựng “Ngôi nhà tình nghĩa”, bằng nguồn kinh phí đóng góp của mọi tổ chức và cá nhân trong địa phương và các nguồn khác để góp phần cùng nhà nước hỗ trợ người có công với cách mạng có hoàn cảnh khó khăn đặc biệt có nơi ở ổn định. Đối với vấn đề giải quyết việc làm, người có công với cách mạng được ưu tiên giải quyết việc làm, hỗ trợ ổn định đời sống, phát triển kinh tế gia đình như: ưu tiên giao đất, vay vốn của “Quỹ quốc gia giải quyết việc làm” và từ các nguồn khác với lãi suất thấp để sản xuất, được miễn hoặc giảm các loại thuế, miễn hoặc giảm nghĩa vụ lao động công ích 61
- CHƯƠNG IV PHÁP LUẬT CỨU TRỢ XÃ HỘI I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT CỨU TRỢ XÃ HỘI 1. Khái niệm pháp luật cứu trợ xã hội a. Khái niệm cứu trợ xã hội Có thể nói, cứu trợ xã hội là một hoạt động mang tính chất từ thiện, tương thân tương ái giúp đỡ nhau của con người trong các giai đoạn lịch sử khác nhau. Không phải lúc nào trong cuộc sống con người cũng gặp được những điều kiện thuận lợi, những cơ may như mong muốn mà có những lúc họ phải đối mặt với rủi ro, bất hạnh, hiểm nguy và những bất trắc trong cuộc sống. Do đó, con người phải nương tựa vào nhau thông qua các hình thức trợ giúp phong phú. Có thể là trợ giúp trên cơ sở thông cảm, chia sẻ, có thể là sự trợ giúp bằng tiền hoặc hiện vật, có thể là sự phát chẩn cứu đói, có thể thông qua các hiệp hội Cứu trợ xã hội là một trong nhữngững vấn đề được Đảng và nhà nước ta đặc biệt quan tâm. thông qua việc ban hành hàng loạt các văn bản tạo hành lang pháp lý cho hoạt động cứu trợ xã hội được thực hiện trên thực tế. Không giống như bảo hiểm xã hội hay ưu đãi xã hội, cứu trợ xã hội là hoạt động mang tính rộng khắp về phạm vi và về chủ thể, do đó quan tâm đến đối tượng của cứu trợ xã hội là một vấn đề tất yếu của nhà nước trong cácquá trình phát triển của lịch sử. Cứu trợ xã hội là một thuật ngữ đã đượccác sách bá, tạp chí bàn đến, nhưng thuật ngữ này vẫn chưa được ghi nhận chính thức trong hệ thống các văn bản pháp luật của nhà nước ta. Có quan điểm cho rằng, cứu trợ xã hội là hoạt động mang tính chất từ thiện của nhà nước và cộng đồng nhằm trợ giúp cho các đối tượng bị rủi ro, bất hạnh vì những lý do khác nhau không thể tự bảo đảm cuộc sống giúp họ hoà nhập vào cộng đồng. Cứu trợ xã hội là khái niệm dùng để chỉ mọi hình thức và biện pháp giúp đỡ của nhà nước và xã hội về thu nhập và các điều kiện sinh sống khác đối với mọi thành viên của xã hội trong những trường hợp bị bất hạnh, rủi ro, nghèo đói, không đủ khả năng để tự lo cuộc ssống tối thiểu của bản thân và gia đình. Có quan điểm cho rằng cứu trợ xã hội là thuật ngữ được kết hợp từ thuật ngữ “trự giúp xã hội”. Cứu tế xã hội là sự giúp đỡ bằng tiền hoặc hiện vật có tính cấp thiết giúp đỡ cho những thành viên trong xã hội không thể tự lo liệu cuộc sống do gặp rủi ro, bất hạnh. Cứu tế xã hội có tính chất tức thì giúp cho thành viên xã hội thoát khỏi cảnh hiểm nghèo, có thể dẫn đén cái chết. Trợ giúp xã hội là hoạt động chủ yếu của trợ cấp xã hội, nó vừa mang tính chất “cấp cứu” tức thời vừa mang tính chất tượng trợ lâu dài. Trợ giúp xã hội được hiểu là sự giúp đỡ thêm bằng tiền, điều kiện sinh hoạt để cho thành viên trong xã hội gặp hoàn cảnh khó khăn bất hạnh, rủi ro có thể phát huy nội lực hoà nhập vào cộng đồng và xã hội. Tóm lại, cứu trợ xã hội được hiểu là sự giúp đỡ dưới các hình thức khác nhau của nhà nước và cộng đồng cho cácthành viên trong xã hội bị rủi ro, bất hạnh, khó khăn giúp họ bảo đảm và ổn định cuộc sống hoà nhập vào cộng đồng b. Khái niệm pháp luật cứu trợ xã hội. Pháp luật cứu trợ xã hội là tổng thể các quy phạm pháp luật do nhà nước ban hành quy định các đối tượng, điều kiện, chếđộ trợ cấp cụ thể và trách nhiệmcủa nhà nước cộng đồng trong việc góp phần đảm bảo và ổn định cuộc sống cho các thành viên trong xã hội gặp rủi ro, khó khăn, bất hạnh 2. Các đặc trưng cơ bản của pháp luật cứu trợ xã hội Pháp luật cứu trợ xã hội có những đặc trưng cơ bản sau: Thứ nhất, đối tượng tham gia quan hệ cứu trợ xã hội bao gồm nhà nước, tổ chức và cá nhân trong và ngoài nước. Không giống như chế độ bảo hiểm xã hội, những người thamgia hỗ trợ 62
- kinh phí vào việc đảm bảo cho quan hệ cứu trợ được thự hiện chủ yếu là sự đóng góp của nhà nước cùng sự ủng hộ, quyên góp của cộng đồng Thứ hai, đối tượng hưởng cứu trợ xã hội là mọi thành viên trong xã hội khi có các sự kiện pháp lý xảy ra do nguyên nhân khách quan, chủ quan khác nhau. Nếu như đối tượng hưởng bảo hiểm xã hội là những người lao động theo nghĩa rộng tham gia bảo hiểm xã hội bao gồm người già cô đơn không nơi nương tựa, trẻ em mồ côi,người tàn tật, người tâm thần, người gặp khó khăn do hậu quả thiên tai hoặc những lý do bất khả kháng khác Thứ ba, mức hưởng trợ cấp phụ thuộc vào hoàn cảnh thực tế của từng đối tượng, mức độ rủi ro mà không tính đến sự đóng góp của đối tượng được thụ hưởng. Có thể nói, cứu trợ xã hội là hoạt động mang tính chất từ thiện giúp cho các đối tượng yếu thế trong xã hội lâm vào hoàn cảnh khó khăn hay gặp rủi ro, bất hạnh. Do đó, người được hưởng cứu trợ xã hội trên cơ sở trách nhiệm của cộng đồng mà không có bất cứ sự đóng góp nào miễm là thoả mãn các điều kiện để thụ hưởng. Thứ tư, tính chất của trợ cấp cứu trợ xã hội mang tính linh hoạt, đa dạng phụ thuộc vào ngân sách nhà nước, phụ thuộc vào sự ủng hộ, quyên góp của cá nhân, tổ chức và cộng đồng tại thời điểm trợ cấp. Do đó, tuỳ từng đối tượng khác nhau mà có các chế độ trợ cấp khác nhau. II. CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ CỨU TRỢ XÃ HỘI 1. Chế độ cứu trợ xã hội thường xuyên Chế độ cứu trợ xã hội thường xuyên là sự hỗ trợ, giúp đỡ về mặt vật chất và tinh thần mang tính lâu dài cho những người thuộc diện cứu trợ xã hội nhằm giúp đỡ họ ổn định cuộc sống, hoà nhập vào cộng đồng. Tuỳ từng đối tượng cứu trợ xã hội khác nhau mà pháp luật quy định chế độ trợ cấp cụ thể. a. Đối tượng hưởng chế độ cứu trợ xã hội thường xuyên Không phải tất cả các đối tượng bất hạnh, rủi ro không thể tự lo liệu cuộc sống đều là đối tượng hưởng chế độ cứu trợ xã hội thường xuyên. chỉ những đối tượng thoả mãn các điều kiện thuộc diện cứu trợ xã hội mới được hưởng chế độ trợ cấp này. Đối tượng bảo trợ xã hội thuộc diện trợ cấp hàng tháng do xã, phường, thị trấn quản lý gồm: * Trẻ em mồ côi cả cha và mẹ, trẻ em bị bỏ rơi, mất nguồn nuôi dưỡng; trẻ em mồ côi cha hoặc mẹ nhưng người còn lại là mẹ hoặc cha mất tích theo quy định tại Điều 78 của Bộ luật Dân sự hoặc không đủ năng lực, khả năng để nuôi dưỡng theo quy định của pháp luật; trẻ em có cha và mẹ, hoặc cha hoặc mẹ đang trong thời gian chấp hành hình phạt tù tại trại giam, không còn người nuôi dưỡng; trẻ em nhiễm HIV/AIDS thuộc hộ gia đình nghèo. Người chưa thành niên từ đủ 16 đến dưới 18 tuổi nhưng đang đi học văn hóa, học nghề, có hoàn cảnh như trẻ em nêu trên. * Người cao tuổi cô đơn, thuộc hộ gia đình nghèo; người cao tuổi còn vợ hoặc chồng nhưng già yếu, không có con, cháu, người thân thích để nương tựa, thuộc hộ gia đình nghèo (theo chuẩn nghèo được Chính phủ quy định cho từng thời kỳ). * Người từ 85 tuổi trở lên không có lương hưu hoặc trợ cấp bảo hiểm xã hội. * Người tàn tật nặng không có khả năng lao động hoặc không có khả năng tự phục vụ, thuộc hộ gia đình nghèo. * Người mắc bệnh tâm thần thuộc các loại tâm thần phân liệt, rối loạn tâm thần đã được cơ quan y tế chuyên khoa tâm thần chữa trị nhiều lần nhưng chưa thuyên giảm và có kết luận bệnh mãn tính, sống độc thân không nơi nương tựa hoặc gia đình thuộc diện hộ nghèo. * Người nhiễm HIV/AIDS không còn khả năng lao động, thuộc hộ gia đình nghèo. * Gia đình, cá nhân nhận nuôi dưỡng trẻ em mồ côi, trẻ em bị bỏ rơi. * Hộ gia đình có từ 02 người trở lên tàn tật nặng, không có khả năng tự phục vụ. 63