Giáo trình Kế toán đại cương

Khái niệm kế toán:
Kế toán là công việc ghi chép tính toán bằng con số biểu hiện dưới hình thức
giá trị là chủ yếu để phản ánh, kiểm tra tình hình vận động của các loại tài sản,
quá trình và kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của đơn vị. Cụ thể:
 Ghi chép trên các chứng từ, sổ sách kế toán.: lập chứng từ để chứng minh tính hợp
pháp về sự hình thành và tình hình sử dụng vốn vào mục đích kinh doanh, luân chuyển
chứng từ đúng tuyến để cung cấp thông tin cho quản lý.
 Ghi chép các NVKT phát sinh thông qua hệ thống tài khoản.
 Ghi chép về những tình trạng thay đổi của các giao dịch quan hệ với nhau.
 Ghi chép phân tích những ảnh hưởng của sự thay đổi đôí với tài sản của đơn vị.
Thước đo dùng trong hạch toán kế toán
 Thước đo hiện vật: Đo lường các vật phẩm cùng phẩm chất thông qua kỹ thuật cân,
đo, đong đếm.
 Thước đo lao động: xác định số lượng và thời gian lao động cho một hoạt động nào
đó.
 Thước đo bằng tiền: sử dụng tiền làm đơn vị thống nhất để phản ánh tất cả các chỉ tiêu
kinh tế.
Chức năng:
Chức năng chủ yếu của kế toán là phản ánh và giám đốc:
 Phản ánh (chức năng thông tin): theo dõi toàn bộ các hiện tượng kinh tế tài chính phát
sinh trong quá trình hoạt động của đơn vị thông qua việc ghi chép, phân loại , xử lý tổng
kết các dữ liệu có liên quan để cung cấp thông tin về các hoạt động đã diễn ra.
 Giám đốc(chức năng kiểm tra): thông qua các thông tin đã phản ánh hỗ trợ cho việc
quản lý, đánh giá, kiểm tra thực hiện các mục tiêu đề ra giúp cho hoạt động ngày càng
hiệu quả hơn..
Hai chức năng này được tiến hành đồng thời: Phản ánh là cơ sở để giám đốc
và ngược lại thông qua giám đốc sẽ giúp cho phản ánh được rõ ràng chính xác
và đầy đủ hơn. Hai chức năng này được hỗ trợ thực hiện bởi một hệ thống các
phương pháp kế toán. 
pdf 68 trang hoanghoa 09/11/2022 6640
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Giáo trình Kế toán đại cương", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfgiao_trinh_ke_toan_dai_cuong.pdf

Nội dung text: Giáo trình Kế toán đại cương

  1. 1. “Tài sản do đâu mà có ? “ Trả lời câu hỏi này sẽ cho biết toàn bộ tài sản của doanh nghiệp có nguồn gốc từ đâu, nguồn hình thành các tài sản được gọi là nguồn vốn. Nợ phải trả: là những khoản tiền doanh nghiệp đi vay, mượn hoặc chiếm dụng từ các tổ chức, cá nhân khác và phải có trách nhiệm hoàn trả. Nợ phải trả được chia làm 2 loại: Nợ ngắn hạn và Nợ dài hạn. Nguồn vốn chủ sở hữu: là số vốn của các chủ sở hữu, các nhà đầu tư đóng góp mà doanh nghiệp không phải cam kết thanh toán. Nguồn vốn chủ sở hữu có thể do chủ sở hữu hoặc các nhà đầu tư trực tiếp đóng góp hoặc hình thành từ lợi nhuận để lại doanh nghiệp. Tài sản của doanh nghiệp có nhiều loại khác nhau nhưng chúng phải có nguồn gốc xác định. Một tài sản có thể được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau và ngược lại một nguồn có thể hình thành nên một hay nhiều loại tài sản khác nhau. Vậy, giá trị của tài sản và nguồn hình thành tài sản là hai mặt của một tài sản. Mỗi tài sản khi xem xét đều phải biết được giá trị và nguồn hình thành nên tài sản đó. Xuất phát từ mối quan hệ nhý nêu trên nên về mặt lượng luôn luôn tồn tại mối quan hệ cân đối sau: Tổng tài sản = Nợ phải trả + Nguồn vốn chủ sở hữu Trong Doanh nghiệp, tổng giá trị tất cả các loại tài sản luôn bằng tổng giá trị nguồn hình thành nên tài sản đó. Phương trình kế toán cơ bản: Tổng tài sản = Tổng nguồn vốn. Tóm lại: Tài sản được hình thành từ nguồn vốn nhất định. Nguồn vốn được thể hiện bằng tài sản nhất định. Tài sản là hình thức, bên ngoài. Nguồn vốn là nội dung bên trong. Sự tuần hoàn của vốn trong kinh doanh: Trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, tài sản của đợn vị không ngừng vận động và biến đổi về mặt hình thái lẫn giá trị. Sự biến đổI này phụ thuộc vào chức năng cơ bản của từng đơn vị kinh doanh. Doanh nghiệp sản xuất: Chức năng cơ bản là sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Tài sản của doanh nghiệp vận động qua 3 giai đoạn: cung cấp (dự trữ), sản xuất, tiêu thụ. Tương ứng với ba giai đoạn trên tài sản thay đổI từ dạng tiền thành nguyên liệu, vật tư đầu vào sản xuất tạo ra thành phẩm và từ thành phẩm biến đổI thành khoản phảI thu hay tiền khi bán sản phẩm: Tiền - Hàng Hàng' - Tiền'. Doanh nghiệp thương mại: Chức năng cơ bản là tiêu thụ sản phẩm. Tài sản của doanh nghiệp vận động qua 2 giai đoạn: cung cấp (mua sắm), tiêu thụ. Tương ứng vớI hai giai đoạn trên tài sản thay đổI từ dạng tiền thành hàng hoá và từ hàng hoá biến đổI thành khoản phảI thu hay tiền khi bán sản phẩm: Tiền - Hàng - Tiền' Trong quá trình tuần hoàn tài sản không chỉ biến đổI về hình thái vật chất mà còn biến đổi về mặt giá trị. Giá trị tăng lên của tài sản từ kết quả kinh doanh là mục tiêu của các doanh nghiệp. Những thông tin sự biến đổI về lượng giá trị rất
  2. cần thiết cho việc tìm phương hướng và biện pháp thường xuyên nâng cao hiệu quả của quá trình tái sản xuất, quá trình vận động và lớn lên của tài sản. Tóm lại: Đôí tượng kế toán là tổng tài sản của đơn vị xét trên hai mặt: Nguồn hình thành và quá trình vận động (tuần hoàn) của tài sản trong các giai đoạn sản xuất kinh doanh chủ yếu. Các khái niệm và nguyên tắc kế toán cơ bản Khái niệm tổ chức kinh doanh: Một doanh nghiệp hay một đơn vị được coi là tổ chức kinh doanh khi nó là những tổ chức độc lập với chủ sở hữu và với các doanh nghiệp khác. Nó được coi là đơn vị độc lập vì kế toán phải lập báo cáo tài chính theo định kỳ của từng đơn vị riêng biệt, nếu báo cao tài chính phản ánh tài sản hoạt động của một đơn vị khác hay tài sản hoạt động cá nhân của chủ sổ hữu sẽ làm lệch đi tình trạng tài chính của đơn vị đó. Khái niệm kinh doanh liên tục: Kinh doanh liên tục là kinh doanh thường xuyên của doanh nghiệp không ngưng hoạt động trong tương lai gần. Khi doanh nghiệp sử dụng tài sản vào quá trình sản xuất kinh doanh thì giá của tài sản ở thị trường có thể thay đổi theo thời gian nhưng số liệu ghi chép của những tài sản này không được điều chỉnh để phản ánh theo giá thị trường trừ khi có chứng cớ mạnh mẽ cho sự thay đổi giá này. Không phản ánh sự thay đổi giá theo thị trường của tài sản vì doanh nghiệp kinh doanh liên tục và sự tăng giảm giá diễn ra thường xuyên nên không thể điều chỉnh sự tăng giảm này được nhưng trong trường hợp doanh nghiệp ngưng sản xuất để giải thể, để bán thì giá tài sản phải được phản ánh theo giá thị trường là hợp lý. Khái niệm đồng bạc cố định: Khi các hoạt động sản xuất kinh doanh được phản ánh theo đơn vị tiền tệ thì đơn vị tiền tệ có thể thay đổi theo mức giá chung của xã hội, do vậy để có thể so sánh được, phân tích được hoạt động sản xuất kinh doanh kỳ này với những kỳ khác, thì phải sử dụng đồng bạc cố định. Ví dụ một tài sản của doanh nghiệp mua vào những năm trước với giá 200trđ, và bây giờ bán tài sản này với giá 400 trđ, nếu trong khoảng thời gian từ khi mua đến khi bán sức mua của tiền tệ giảm còn một nửa thì coi như doanh nghiệp chẳng lợi lộc gì trong việc mua bán này vì 400trđ, hiện nay không mua được gì hơn 200trđ trước đây cả. Tuy nhiên sử dụng đồng bạc để đánh giá cả hai quá trình kinh doanh trên thì kế toán viên phải điều chỉnh theo các mức giá cả hai quá trình kinh doanh trên thì kế toán viên báo cáo đã thu được 200trđ lãi, nhưng thực tế có lãi vậy không? Muốn tính được thì kế toán viên phải điều chỉnh theo các mức giá thay đổi nhưng thay vì điều chỉnh thì kế toán viên sử dụng khái niệm đồng bạc cố định, nghĩa là khi báo cáo giả sử giá trị đồng không đổi. Khái niệm về kỳ thời gian: Quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp kéo dài qua nhiều năm, nhưng các nhà quản lý, các nhà đầu tư, cơ quan tài chánh yêu cầu doanh nghiệp cung cấp cho họ những báo cáo tài chính theo định kỳ, do vậy kế toán phải chia thời gian hoạt động theo từng kỳ nhất định như tháng quí, năm. Như vậy việc lập các báo cáo tài chính theo kỳ
  3. thời gian nhất định còn gọi đó là kỳ kế toán. Các doanh nghiệp thường chọn kỳ kế toán là một năm, tuy nhiên cũng có những doanh nghiệp cũng chọn kỳ kế toán tạm thời một tháng hay một quý để lập báo cáo tài chính, kỳ kế toán một năm là 12 tháng liên tục, kỳ 12 tháng mà doanh nghiệp chọn làm kỳ kế toán năm được gọi là năm tài chính. Khởi điểm của kỳ kế toán là đấu tháng bất cứ đầu tháng nào, tuỳ vào doanh nghiệp có thể là 1/1,1/2,1/3,1/4 nhưng nên chọn kỳ kế toán như thế nào để kết thúc với mức tồn kho thấp nhất và mức hoạt động sản xuất kinh doanh nhỏ nhất. Nguyên tắc kế toán: là những tuyên bố chung như là những chuẩn mực và sự hướng dẫn để phục vụ cho việc lập báo cáo tài chính đạt được mục tiêu dễ hiểu, đáng tin cậy, dễ so sánh của các thông tin kế toán. Những nguyên tắc này được rút ra từ kinh nghiệm thực tiễn của những ngườI làm công tác kế toán kết hợp vớI quá trình nghiên cứu của các cơ quan chức năng được thừa nhận có tính pháp lệnh và được triển khai áp dụng thống nhất trong phạm vi cả nước cho tất cả các đơn vị kinh tế. 1. Nguyên tắc thực thể kế toán: là môt đơn vị kinh doanh, nó kiểm soát nguồn vốn và tham gia vào các hoạt động kinh tế, tồn tại riêng biệt và độc lập trong một doanh nghiệp cũng như đối với các doanh nghiệp khác. Tóm lại, đơn vị nào có vốn hoạt động và vốn đó được kiểm soát, được trao đổi, được tóm lược và được báo cáo - đó là một thực thể kế toán. 2. Nguyên tắc thước đo bằng đồng tiền: sử dụng một đơn vị tiền tệ thống nhất trong quá trình tính toán và ghi chép các nghiệp vụ kinh tế phát sinh trong giả định rằng các biến động về sức mua của đồng tiền không đủ gây ảnh hưởng (không đổi). Khi lập báo cáo tài chính, người lập phải chú ý đến nhân tố này vì trên thực tế nhiều năm qua sức mua của đồng tiền có giảm sút, thông tin kế toán phải được điều chỉnh theo sự lạm phát của đồng tiền. 3. Nguyên tắc trị giá: Khi mua tài sản, hàng hoá, dịch vụ đều ghi chép theo chi phí là số tiền đã bỏ ra để nhận được tài sản, hàng hoá, dịch vụ Giá mua được phản ánh theo chi phí thực tế, “giá trị thị trường hợp lý “ nhưng với thời gian trôi qua “giá trị thị trường hợp lý “ có thể bị thay đổi so với giá gốc của chúng, vì vậy khuynh hướng hiện nay sẽ được điều chỉnh theo giá thị trường khi có sự biến động. 4. Nguyên tắc ghi nhận doanh thu được hưởng: Doanh thu chỉ được ghi nhận khi doanh nghiệp đã hoàn thành trách nhiệm cung cấp sản phẩm hàng hoá (mất quyền sở hữu về sản phẩm hàng hoá) và được khách hàng thanh toán (nhận được quyền sở hữu về tiền) hoặc chấp nhận thanh toán . 5. Nguyên tắc tương xứng giữa doanh thu và chi phí: Trong kỳ kế toán, doanh thu được hưởng phát sinh trên cơ sở những chi phí nào thì tổng cộng các chi phí đó mới được coi là chi phí dù cho chi phí ấy có xảy ra ở thời điểm nào và được trừ ra khỏi doanh thu được hưởng khi xác định kết quả kinh doanh. 6. Nguyên tắc thực tế khách quan: Nguyên tắc này đòi hỏi việc ghi chép các nghiệp vụ kinh tế phát sinh vào các chứng từ sổ sách phải khách quan theo đúng sự việc thực tế diễn ra và có thể kiểm chứng lại được.
  4. 7. Nguyên tắc công khai: Tất cả các hoạt động kinh tế diễn ra trong kỳ kế toán phải được phản ánh đầy đủ trong báo cáo kế toán và phải có giải trình, công bố công khai theo quy định của nhà nước. Sự công kai như vậy sẽ làm cho các báo cáo tài chính có ích lưọi hơn và giảm bớt các vấn đề bị hiểu sai. Việc công khai không đòi hỏi những thông tin đưa ra thật đầy đủ chi tiết mà những thông tin ấy không được dấu các sự kiện quan trọng. 8. Nguyên tắc nhất quán (kiên định): áp dụng phương pháp kế toán nào thì phải thống nhất qua các năm để người đọc không bị nhầm lẫn và so sánh được. Tuy nhiên nếu có sự thay đổI về phương pháp đã chọn là hợp lý và cần thiết thì nên thay đổI nhưng phảI thuyết minh cho ngườI đọc biết có sự thay đổI đó. 9. Nguyên tắc thận trọng: Chọn giải pháp ít ảnh hưởng đến vốn nhất (có lợi cho tài sản của doanh nghiệp nhất), nguyên tắc ấy là “ thừa nhận tất cả các khoản lỗ nhưng không hưởng trước một khoản lãi nào”. Ghi doanh thu, tăng vốn chủ sở hữu khi có bằng chứng chắc chắn nhất. Ghi chi phí, giảm vốn chủ sở hữu khi có dấu hiệu hoặc những bằng chứng chưa chắc chắn. Chương 2: Bảng cân đôí kế toán và báo cáo kết quả kinh doanh Để phục vụ cho công tác quản lý tài chính thì đơn vị cần phải có các tài liệu tổng hợp phản ánh toàn bộ hoạt động của mình. Các tài liệu tổng hợp không chỉ cần cho bản thân đơn vị mà còn cần thiết cho những đối tượng có quyền lợi trực tiếp hoạc gián tiếp đối với đơn vị, và những ai có quan tâm đến hoạt động của đơn vị Việc phản ánh vào sổ sách kế toán mới chỉ phản ánh được từng loại tài sản, từng loại nguồn vốn cũng như từng mặt riêng biệt của quá trình hoạt động của mỗi đơn vị. Các tài liệu này mặc dù rất cần thiết cho công tác quản lý, song yêu cầu tổng hợp từ các sổ kế toán thành hệ thống các chỉ tiêu tổng hợp là vấn đề có ý nghĩa rất quan trọng về mặt quản lý tài chính. Các thông tin tổng hợp được gọi là các thông tin tài chính mà công tác kế toán phải có trách nhiệm cung cấp một cách kịp thời, chính xác trung thực. Do tính chất tổng hợp của các thông tin tài chính nên số liệu được sử dụng để xác lập các chỉ tiêu tổng hợp đều được biểu hiện dưới hình thức tiền tệ (chỉ sử dụng duy nhất thước đo bằng tiền). Cân đối là tính chất vốn có gắn liền với đối tượng mà kế toán phản ánh và giám đốc biểu hiện qua mối quan hệ giữa tài sản và nguồn hình thành nên tài sản, ngoài ra nó cần được biểu hiện thành những quan hệ cụ thể bên trong của bản thân tài sản, bản thân nguồn vốn và mối quan hệ giữa chúng với nhau trong quá trình vận động. Có thể đưa ra một vài ví dụ: Giá trị hiện còn lại của tài sản cố định = Nguyên giá - Giá trị hao mòn
  5. Số dư đầu kỳ + Số phát sinh tăng trong kỳ = Số dư cuối kỳ + Số phát sinh giảm trong kỳ Tính cân đối của kế toán còn bắt nguồn từ phương pháp ghi sổ kép để phản ánh mối quan hệ giữa các đối tượng kế toán gắn liền với nghiệp vụ kế toán cụ thể: ghi nợ phải đi đôi với ghi có và số tiền phải luôn luôn bằng nhau, tổng số phát sinh bên nợ của các tài khoản= tổng số phát sinh bên có của các tài khoản. Ngoài ra tính cân đối còn xuất hiện thông qua việc tổng hợp các quá trình hoạt động của doanh nghiệp để cung cấp các thông tin tài chính nhằm phản ánh tổng quát tình hình và kết quả hoạt động của đơn vị. Có thể nêu một vài cân đối thuộc dạng này: Luồng tiền tệ ở đầu kỳ + luồng tiền tăng thêm trong kỳ = luồng tiền giảm xuống trong kỳ + luồng tiền hiện có cuối kỳ Doanh thu thuần = Giá vốn hàng hoá + Chi phí bán hàng và quản lý + Kết quả kinh doanh. Tính cân đối tồn tại khách quan gắn liền với đối tượng kế toán và sự vận động của đối tượng kế toán, nó cũng tồn tại khách quan trong quá trình tổng hợp thông tin. Tính tổng hợp là yêu cầu khách quan trong hoạt động quản lý nói chung và quản lý tài chính nói riêng. Tính tổng hợp của thông tin kế toán không thể tách rời đối tượng kế toán và sự vận động của nó. Do vậy, tổng hợp cân đối là hai mặt khác nhau của phương pháp kế toán, chúng tồn tại đồng thời và quan hệ mật thiết với nhau biểu hiện bức tranh toàn cảnh về kết quả hoạt động của đơn vị. Phương pháp tổng hợp cân đối được biểu hiện thông qua hệ thống các báo cáo kế toán. Theo qui định hiện nay, báo cáo kế toán tài chính định kỳ bao gồm: Bảng cân đối kế toán. Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh. Báo cáo lưu chuyển tiền tệ. Bảng thuyết minh bổ sung. Sau đây sẽ giới thiệu 2 báo cáo biểu hiện tập trung tính tổng hợp - cân đối của kế toán: Bảng cân đối kế toán và Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh. Bảng cân đôí kế toán Khái niệm: Bảng cân đôí kế toán là một bảng báo cáo tài chính tổng hợp dùng để khái quát toàn bộ tài sản và nguồn hình thành tài sản đó tại một thời điểm nhất định. Biểu hiện phương pháp tổng hợp cân đôí. Giá trị biều hiện: Tiền. Tại một thời điểm nhất định. Đặc điểm: Số liệu chỉ phản ánh tình trạng tài chính tại thời điểm lập báo cáo.
  6. Có tính tổng kết toàn bộ giá trị tài sản và nguồn hình thành tài sản sau một quá trình sản xuất kinh doanh. Tác dụng: Thấy được toàn bộ giá trị tài sản hiện có, hình thái vật chất của tài sản, nguồn hình thành tài sản đó. Đánh giá khái quát tình hình tài chính, sự biến động tăng giảm của nguồn vốn chủ sở hữu. Nội dung và kết cấu của bảng: Xúât phát từ yêu cầu biểu hiện hai mặt khác nhau của tài sản trong doanh nghiệp: Tài sản gồm những gì và tài sản do đâu mà có nên kết cấu của bảng được xây dựng theo 2 bên hoặc hai phần: A, PHẦN TÀI SẢN: phản ánh giá trị tài sản hiện có tại thời điểm lập báo cáo của tất cả đôí tượng thuộc nhóm tài sản (theo tính lưu động giảm dần). Phần tài sản được chia làm 2 loại lớn: Tài sản lưu động và đầu tư ngắn hạn. Tài sản cố định và đàu tư dài hạn. B, PHẦN NGUỒN VỐN: phản ánh giá trị tài sản hiện có tại thời điểm lập báo cáo của tất cả đôí tượng thuộc nhóm nguồn vốn theo thời hạn thanh toán tăng dần. Phần nguồn vốn được chia làm 2 loại lớn: Nợ phải trả. Nguồn vốn CSH. Trong từng loại còn chia thành nhiều mục, nhiều khoản để phản ánh chi tiết theo yêu cầu quản lý chung theo những quy định và sắp xếp thống nhất. Hai bên của bảng phản ánh hai mặt khác nhau tài sản trong doanh nghiệp nên giữa chúng có mối quan hệ mật thiết với nhau. Xét về mặt lượng thì bao giờ cũng có: Tài sản = Nguồn vốn Nợ phảI trả + Nguồn vốn chủ sở Tổng tài sản = hữu Tính bằng nhau biểu hiện tính cân đối. Tính cân đối là tính chất cơ bản của Bảng CĐKT. VD: Phân biệt tài sản và nguồn vốn cho một cho một doanh nghiệp theo các thông tin sau (Lập bảng cân đôí kế toán): -Tiền mặt tại quỹ 30.000.000 -NVL trong kho trị giá 100.000.000 Hình thành từ: nhà nước cấp 70.000.000
  7. Vay ngắn hạn ngân hàng 30.000.000 - Máy móc thiết bị trị giá 500.000.000 Nhà nước cấp 100.000.000 Vốn của các thành viên góp 300.000.000 Vay dài hạn 100.000.000 Xét tính cân đôí của bảng: Khái niệm: Nghiệp vụ kinh tế phát sinh là sự kiện làm biến động tài sản, nguồn vốn trong doanh nghiệp. Điều kiện đề là nghiệp vụ kinh tế: liên quan đến ít nhất hai đôí tượng kế toán và phải có giá trị cụ thể. Trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, các loại tài sản và nguồn vốn luôn biến động (tãng lên hoặc giảm xuống) do tác động của các nghiệp vụ kinh tế. Vậy sự biến động của tài sản và nguồn vốn có làm phá vỡ tính chất cân đôí của bảng cân đôí kế toán? Tài sản SDĐK Nguồn vốn SDĐK A.TSLĐ&ĐTNH 165.000.000 A.NỢ PHẢI TRẢ 75.000.000 Tiền mặt 20.000.000 Vay ngắn hạn 30.000.000 Tiền gởi ngân hàng 35.000.000 Phải trả người bán 35.000.000 Nguyên vật liệu 50.000.000 Phải nộp nhà nước 10.000.000 Công cụ dụng cụ 10.000.000 Thành phẩm 50.000.000 B.TSCĐ&ĐTDH 70.000.000 B. NGUỒN VỐN CSH 160.000.000 TSCĐ hữu hình 100.000.000 Vốn kinh doanh 140.000.000 Hao mòn TSCĐHH (30.000.000) Quỹ 20.000.000 TổngTài sản 235.000.000 Tổng Nguồn vốn 235.000.000 Mặc dù các nghiệp vụ kinh tế đa dạng nhưng nói chung ảnh hưởng của chúng lên tài sản và nguồn vốn làm thay đổi bảng không ngoài 4 trường hợp sau: Trường hợp 1: liên quan 2 khoản mục một bên Tài sản: khoản mục này tăng, khoản mục kia thì giảm. Vd: Rút tiền gởi ngân hàng 5trđ nhập quỹ tiền mặt. Phân tích: Tiền gởi ngân hàng giảm 5trđ Tiền mặt tăng 5 trđ Trường hợp 2: liên quan 2 khoản mục một bên Nguồn vốn: khoản mục này tăng, khoản mục kia thì giảm. Vd: DN vay ngắn hạn 10 trđ trả nợ cho người bán.
  8. Phân tích: Vay ngắn hạn tăng:10 trđ Phải trả người bán giảm:10 trđ Trường hợp 3: liên quan khoản mục hai bên bảng: các khoản mục này cùng tăng. Vd: Mua nguyên liệu nhập kho chưa trả tiền người bán 20trđ. Phân tích: Nguyên liệu tăng: 20trđ Phải trả người bán tăng:10 trđ Trường hợp 4: liên quan khoản mục hai bên bảng: các khoản mục này cùng giảm. Vd: DN sử dụng tiền gửi ngân hàng trả nợ vay ngắn hạn ngân hàng 10trđ. Phân tích: Tiền gửi ngân hàng giảm: 10trđ. Vay ngắn hạn giảm: 10trđ. Nhận xét chung: Mỗi NVKT phát sinh liên quan ít nhất 2 khoản mục trên bảng CĐKT Nếu NVKT phát sinh chỉ ảnh hưởng đến những khoản mục ở một bên của bảng CĐKT thì số tổng cộng ở phần tài sản và phần nguồn vốn vẫn không thay đổi (Nvụ 1 & 2). Nếu NVKT phát sinh đồng thời ảnh hưởng đến những cả hai phần của bảng CĐKT thì số tổng cộng ở 2 phần thay đổi, cùng tăng hoặc cùng giảm (Nvụ 3 & 4). Trong mọi trường hợp khi có NVKT phát sinh, tính chất cân đôí của bảng không bị phá vỡ nghĩa là: TỔNG CỘNG TÀI SẢN = TỔNG CỘNG NGUỒN VỐN Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh Khái niệm: Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh là một báo cáo tài chính tổng hợp phản ánh tổng quát tình hình và kết quả kinh doanh của doanh nghiệp trong một kỳ kinh doanh. Tác dụng: Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh lãi lỗ và các chỉ tiêu khác giúp nhà quản trị ra các quyết định trên cơ sở phân tích tình hình và kết quả hoạt động của doanh nghiệp. Cung cấp các thông tin cần thiết cho các tổ chức cá nhân bên ngoài doanh nghiệp đặc biệt là khi xem xét khả năng sinh lời từ hoạt động của doanh nghiệp. Nội dung và kết cấu: Gồm 3 phần Phần I: Lãi lỗ: các chỉ tiêu cần thiết về tình hình hoạt động của doanh nghiệp: Doanh thu, Chi phí, Lợi nhuận từ: Hoạt động sản xuất kinh doanh: là hoạt động cơ bản, chính chủ yếu trong Doanh nghiệp: Sản xuất, thương mại, dịch vụ. Hoạt động tài chính: là hoạt động góp phần sử dụng hiệu quả đồng vốn như đầu tư mua bán chứng khoán, góp vốn, cho vay, kinh doanh bất động sản.
  9. Hoạt động bất thường: là những hoạt động không xảy ra thường xuyên như: thanh lý, nhượng bán tài sản, thu được các khoản nợ khó đòi . Phần II: Tình hình thực hiện nghĩa vụ với nhà nước: Thuế, Các khoản phải nộp khác., tổng số thuế của nãm trýớc chuyển sang. Phần III: Thuế VAT được khấu trừ, được hoàn lại, được miễn giảm. Môí quan hệ giữa bảng BCKQKD và bảng Cân đôí kế toán Các chỉ tiêu trên bảng cân đôí tài sản: Lãi (Lỗ) = Doanh thu - Chi phí. Lãi chưa phân phôí là bộ phận chủ yếu của vốn chủ sở hữu do đó khoản mục lãi trên bảng Cân đôí kế toán sẽ tăng giảm một lượng bằng kết quả kinh doanh lãi lố trên bảng BCKQKD. Vào thời điểm ghi doanh thu được hưởng, doanh nghiệp đã nhận được một khoản tiền hay khoản phảI thu làm tăng tài sản.ngược lại, khi phát sinh chi phí được trừ thì tài sản của đơn vị đã bị giảm xuống. Các chỉ tiêu doanh thu, chi phí tuy không xuất hiện trên bảng cân đôí kế toán mà thông qua chỉ tiêu lãi chưa phân phôí bởI vì các sự liên quan đến tăng giảm các lọaI tài sản đã được trình bày trên bảng cân đôí kế toán. Sau một quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh dù kết quả đạt được thế nào đi nữa (lãi, lỗ) thì sự cân đôí tài sản và nguồn vốn cũng được giữ vững. Chương 3: Tài khoản và kế toán kép Tài khoản Khái niệm: Tài khoản kế toán là một phương pháp kế toán dùng để phân loại và hệ thống hoá các NVKT phát sinh theo nội dung kinh tế. Tài khoản kế toán nhằm phản ánh và kiểm soát thường xuyên liên tục, có hệ thống tình hình vận động của tài sản, nguồn vốn, quá trình và kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của đơn vị. Một số đặc điểm cơ bản về phương pháp tài khoản: Về hình thức: là sổ kế toán tồng hợp để ghi chép về số hiện có cũng như sự biến động của từng đối tượng kế toán cuh thể trên cơ sở phân loại các nghiệp vụ kinh tế phát sinh theo các tiêu thức nhất định. Về nội dung: Phản ánh một cách thường xuyên và liên tục sự biến động của từng đối tượng kế toán trong quá trình hoạt động của đơn vị. Về chức năng: giám đốc một cách thường xuyên và kịp thời tình hình bảo vệ và sử dụng từng loại tài sản, nguồn vốn. Nội dung và kết cấu tài khoản: