Bộ sưu tập thơ ca, truyện kể, câu đố cho trẻ mầm non
Bộ sưu tập thơ ca, truyện kể, câu đố cho trẻ mầm non
Chủ đề: quê hương đất nước
Tuyển chọn: giáp thị hồng
Lời nói đầu
Thơ ca, truyện kể và câu đố giữ vai trò quan trọng trong đời sống tâm hồn trẻ thơ.
Những bài thơ, câu chuyện luôn mang lại cho trẻ niềm vui thích, mở ra cho trẻ thế giới tình cảm của con người, giúp trẻ hiểu biết về cuộc sống, về thế giới xung quanh; qua đó phát triển ngôn ngữ, tình cảm và thẩm mĩ. Những câu đố lại kích thích óc tưởng tượng, suy đoán, phát triển trí thông minh ở trẻ.
Chủ đề: quê hương đất nước
Tuyển chọn: giáp thị hồng
Lời nói đầu
Thơ ca, truyện kể và câu đố giữ vai trò quan trọng trong đời sống tâm hồn trẻ thơ.
Những bài thơ, câu chuyện luôn mang lại cho trẻ niềm vui thích, mở ra cho trẻ thế giới tình cảm của con người, giúp trẻ hiểu biết về cuộc sống, về thế giới xung quanh; qua đó phát triển ngôn ngữ, tình cảm và thẩm mĩ. Những câu đố lại kích thích óc tưởng tượng, suy đoán, phát triển trí thông minh ở trẻ.
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Bộ sưu tập thơ ca, truyện kể, câu đố cho trẻ mầm non", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
- bo_suu_tap_tho_ca_truyen_ke_cau_do_cho_tre_mam_non.doc
Nội dung text: Bộ sưu tập thơ ca, truyện kể, câu đố cho trẻ mầm non
- Tôm càng xanh nước quơ râu Rừng vàng biển bạc còn đâu phải tìm. Yến sào Hòn Nội Vịt lộn Ninh Hòa Tôm hùm Bình Ba Nai kho Diên Khánh Cá tràu Vỏ Cạnh Sò huyết Thủy Triều. Phần 3: Câu đố Bốn chân như cột nhà Hai tai ve vẩy, hai ngà trắng phau Voi dài vắt vẻ trên đầu Trong rừng thích sống với nhau từng đàn Là con gì? (con voi) Con gì nhảy nhót leo trèo Mình đầy lông lá nhăn nheo làm trò? ( con khỉ) Con gì cổ dài Ăn lá trên cao Da lốm đốm sao Sống trên đồng cỏ ( hươu cao cổ) Con gì lông vằn mắt xanh Dáng đi uyển chuyển , nhe nanh tìm mồi Thỏ, nai gặp phải hỡi ôi! Muông thú khiếp sợ tôn ngôi chúa rừng? ( con hổ) Con gì chạy thật là nhanh Có đôi sừng nhỏ giống cành cây khô? ( con hươu ) Trông giống con hổ lớn Đeo bơm thật oai phong Dáng đi thật hùng dũng Săn đuổi đàn hươu, nai Là con gì? ( con sư tử )
- Sống trên đồng cỏ rộng Không đi, nhảy rất tài Đeo túi mềm trước ngực Địu con trên đường dài Là con gì? (con chuột túi) Cũng gọi là chó Mà chẳng ở nhà Sống tận rừng xa Là loài hung dữ Là con gì? ( con chó sói) Chuyền cành mau lẹ Có cái đuôi bông Hạt dẻ thích ăn Con gì thế nhỉ? ( con sóc) Con gì là loài ngựa Nhưng lông vằn trắng, đen Ăn lá cây , cỏ dại Sống từng đàn đống vui? ( con ngựa vằn) Đầu nhỏ mà có bốn chân Lưng đầy tên nhọn, khi cần bắn ngay Là con gì? ( con nhím ) Con gì luồn lách khắp nơi Gà mà sơ hở là sơi tức thi? ( con cáo) Trên mình mặc áo hoa Leo trèo nhanh thoăn thoắt Chỉ cần trong nháy mắt Giấu mồi trên ngọn cây Là con gì? ( con báo) Con gì da tựa mo lang Sừng dọc sống mũi, lang thang trong rừng Nhìn thấy bùn vũng là mừng Thú hoang như thể con cưng bảo tồn? ( con tê giác)
- Con gì có bướu trên lưng Tươi nắng, cổ khát vẫn băng dặm dài? (con lạc đà) Câu đố chữ cái Bình thường em đọc chữ “u” Khi em quay ngược “u” ra chữ gì? ( chữ n ) Một nét thẳng đứng nghiêm trào Trên thêm dấu chấm( .) cháu nào nói ngay! ( chữ i) Nét tròn em đọc chữ “o” Khuyết đi một nửa em cho chữ gì? ( chữ c) Sừng sững đứng thẳng một mình Đọc lên uốn lưỡi đố bé chữ gì? ( chữ l) Ba anh cùng giống cai mình Tròn xoe như trái trứng gà nhà ai? Một anh đội mũ thật hay Anh kia làm biếng cô thời thêm râu ( chữ o, ô, ơ) Củ gì đo đỏ Con thỏ thích ăn ( củ cà rốt) Con gì mải miết rong chơi Tiếng kêu ra rả gọi mời hè sang (con ve) Con gì không có cánh Lại sống được hai nơi Ngày đội nhà đi chơi Tối úp nhà nằm ngủ (con rùa ) Hồ gì ở giữa thủ đô Nước xanh biêng biếc, tháp Rùa soi nghiêng? ( Hồ Hoàn Kiếm ) Ở đâu có cảng Nhà Rồng?
- Ở đâu sương phủ rừng thong sớm chiều? ( TP Hồ Chí Minh ; Đà Lạt) Truyện cổ :Mèo và Chuột Mèo và Chuột Có một con chuột nọ làm thân với mèo. Chuột kể lể tâm tình tha thiết về tình cảnh của mình làm mèo nghe bùi tai đồng ý ăn ở chung với nó. Mèo bảo: - Ta phải đề phòng mùa rét kẻo rồi bị đói. Chú mày chớ có đi lại liều lĩnh kẻo rồi mắc bẫy đấy. Chuột nghe lời. Chúng đi mua một niêu mỡ nhưng không biết cất đâu. Suy nghĩ mãi, chuột bảo: "Anh thấy chẳng còn nơi nào cất tốt bằng ở nhà thờ vì ở đấy không ai dám lấy gì đi. Cánh ta đem cất niêu dưới gầm bàn thờ, chưa cần mỡ thì ta nhất định không rờ đến". Thế là chúng cất niêu thật kỹ. Nhưng chẳng bao lâu chuột ta thèm mỡ, nói với mèo: - Anh mèo ạ, anh muốn nói với chú điều này. Anh có người chị họ mời đến làm bố đỡ đầu cho cháu. Chị ấy sinh được con trai, lông trắng đốm nâu, anh phải đi dự lễ đỡ đầu. Hôm nay anh đi, chú ở nhà trông coi nhà cửa một mình nhé. Mèo đáp: - Vâng vâng, lạy Chúa ban phước lành cho anh đi, có miếng ngon, anh nhớ lấy phần về cho em nhé. Em ao ước được nhắp rượu vang đỏ ngọt. Nhưng tất cả những điều chuột nói đều là dối trá. Chuột làm gì có chị em họ nào, mà cũng chẳng có ai mời đến làm lễ đỡ đầu. Nó đến thẳng nhà thờ, lén đến niêu mỡ, ăn xong liếm lông cho sạch mỡ. Rồi nó dạo chơi trên mái nhà thành phố, rồi nhìn quanh. Mãi đến chiều nó mới về nhà. Mèo nói: - Thế nào, anh đã về đấy à? Chắc là cả ngày nhởn nhơ vui thú lắm nhỉ? - Ừ thú lắm. Mèo liền hỏi: - Đứa trẻ đặt tên đỡ đầu là gì?
- Chuột đáp gọn lỏn: - "Liếm sạch đầu. Mèo reo lên: - Sao lại là "Liếm sạch đầu". Thật là một cái tên lạ lùng, hiếm có. Trong họ anh, tên ấy có thông thường không? Chuột cười rồi nói: - Có gì lạ đâu! Tên ấy cũng không có gì xấu hơn tên đỡ đầu của chú? Cách đó ít lâu, chuột lại nổi cơn thèm, nói với mèo: - Chú làm ơn giúp anh nhé. Nhờ chú trông nom nhà cửa một mình chuyến nữa. Anh lại có người mời đi làm bố đỡ đầu lần thứ hai. Đứa trẻ có vòng lông trắng quanh cổ, anh không tiện từ chối. Mèo vui vẻ, nhận lời. Chuột kín đáo đi đến nhà thờ ăn thêm một nửa niêu mỡ. Nó nghĩ bụng: "Không gì ngon hơn là ăn một mình", và lấy làm thú vị về việc làm ngày hôm đó. Khi về nhà, mèo hỏi: - Thế nào anh, tên đỡ đầu của đứa trẻ là gì? Chuột đáp: - "Hết một nửa" - Sao lại "Hết một nửa"? Chú nói gì thế? Từ thủa cha sinh mẹ đẻ, tôi chưa nghe thấy tên ấy bao giờ. Tôi cá là tên ấy không có ở trong lịch sử. Sau đó ít lâu, nghĩ đến mỡ, chuột lại thèm nhỏ dãi. Nó liền bảo mèo: - Quá tam ba bận. Anh lại phải đứng ra làm bố đỡ đầu. Đứa trẻ đen tuyền. Trừ chân trắng, không có một sợi lông trắng nào trên người, thật là mấy năm mới có một lận sinh thế. Chú mày để anh đi nhé! Mèo đáp:
- - "Liếm sạch lông", "Hết một nửa", tên gì mà quỉ quái thế, chú làm tôi cứ suy nghĩ mãi đấy. Chuột nói: - Chú cứ ru rú xó nhà với cái áo lông màu xám thẫm và cái đuôi dài mà nghĩ lẩn thẩn. Ấy chẳng qua là tại cả ngày không chịu đi ra ngoài đấy thôi! Mèo lắc đầu, rồi bò ra ngoài sưởi nắng. Trong lúc ấy, chuột háu ăn chén sạch niêu mỡ. Nó nghĩ bụng: "Chỉ chén kỳ hết mới yên tâm". Mãi đến đêm, nó mới về nhà, no nứt bụng. Mèo hỏi luôn tên đứa trẻ được rửa tội là gì. Chuột đáp: - Chắc là chú không vừa lòng đâu! Tên nó là "Hết sạch". Mèo kêu: - "Hết sạch", thật là một tên lạ lùng. Tachưa đọc thấy tên ấy bao giờ. "Hết sạch" thế là nghĩa lý gì nhỉ? Nó lắc đầu, nằm cuộn tròn người lại ngủ. Từ đó trở đi, chẳng có ai đến mời chuột đi làm bố đỡ đầu nữa. Nhưng khi mùa đông tới, ngoài trời tuyết rơi lạnh giá mới nghĩ đến thức ăn để dành: - Anh chuột ạ, ta đi tìm niêu mỡ để dành đi, chắc là ngon lắm đấy. Chuột đáp: - Được. Hẳn chú sẽ thấy ngon lắm, ngon như thể lưỡi liếm không khí ấy mà! Chúng ra đi, tới nơi thì thấy niêu vẫn còn nguyên chỗ cũ nhưng chỉ có niêu không. Mèo cau mày bảo: - Thì ra thế, bây giờ tôi mới hiểu các việc đã xảy ra. Bây giờ mới rõ anh thật là bạn tốt. Anh đã đánh chén hết. Anh làm cha đỡ đầu như thế đấy: Lần đầu "Liếm sạch lông", lần sau "Hết một nửa", rồi Tội nghiệp con chuột không kềm được tiếng: "Hết sạch". Vừa nói buông
- miệng thì mèo đã vồ nó nuốt chửng. Bạn xem, tình đời là thế đấy! Truyện cười về Mèo và Chuột ^^. ( tự viết) 1 Con mèo dí súng vào đầu 1 con chuột: Tao hỏi mày: 1+1=? Con chuột run rẩy trả lời: -Dạ 1+1=2 ạk! "Bằng" -Mày đã biết quá nhiều * Đến con chuột thứ 2 vẫn câu hỏi đó. Con chuột thứ 2 suy nghĩ rồi run rẩy trả lời: -Dạ em không biết ạk! "Bằng" -Ngu như mày không nên sống =.=! Đến con chuột thứ 3 , mèo vẫn hỏi lại câu hỏi đó : Con chuột thứ 3 suy nghĩ rồi trả lời : - Biết thì sao mà không biết thì sao ?!! "Bằng" - Nguy hiểm như mày thì càng phải chết >^^< Tiếp tục con chuột thứ 4 , lại là câu hỏi đó :
- Con chuột thứ 4 suy nghỉ rồi trả lời - Trả lời anh giết , không trả lời anh giết , trả lời sai anh giết , trả lời đúng cũng giết luôn thì em biết phải làm sao ?!! "Bằng" - Mày phải chết vì mày đã nói quá nhiều. Truyện Cổ Tích » Mèo Và Chuột Đời xưa, chuột vốn là một giống linh thiêng ở trên Trời. Trời giao cho nó giữ chìa khóa kho lúa của Trời. Nhưng chuột không phải là một loài đáng tin cẩn, nhận được giữ chìa khóa, cứ tự do đến mở kho rủ nhau vào ăn rả rích hết bao nhiêu là lúa. Sau Trời biết, lấy làm giận lắm, mới không cho ở trên ấy nữa, mà đuổi xuống dưới hạ giới để sai giữ chìa khóa lẫm thóc của nhân gian. Nhưng chứng nào tật ấy, chuột lại rủ nhau vào lẫm thóc của người rả rích ăn no nê. Đến nỗi người phải có câu than rằng: "Chuột kia xưa ở nơi nào? Bây giờ ăn lúa nhà tao thế này?" Người lấy làm chua xót, mới kêu với vua Bếp. Vua Bếp liền bắt nó đem lên trả Trời và tâu rằng: - Chuột này vốn chuột của Thiên Đình, sao Thiên Đình lại thả nó xuống hạ giới? Trời nói: - Ừ, trước nó ở trên này giữ chìa khoá kho thóc cho ta. Nhưng bởi nó ăn vụng lúa của ta nhiều lắm nên ta không cho nó ở trên này, ta đuổi nó xuống hạ giới cho nó giữ lúa ở dưới ấy. Vua Bếp tâu: - Nó xuống dưới ấy nó lại ăn vụng lúa hại lắm. Bẩm,chúng con thiết nghĩ: lúa của Trời nhiều, lúa của người ít, của Trời nó ăn không hết chớ của người nó cứ ăn mãi, thì có ngày hết cả, người đến chết đói mất. Vậy xin bây giờ lại cho nó lên trên Trời là phải. Trời nghe tâu, phán rằng: - Không được. Ta đã đuổi nó đi cho xa, ta không thể cho nó lại lên đây nữa. Thôi bây giờ có một cách: Ta có một con mèo, ta cho chú đem xuống hạ giới để khi nào chuột nó ăn lúa của nhân gian thì thả mèo ra cho nó bắt chuột, rồi gầm gừ ăn chuột đi, còn khi nào nó không muốn bắt chuột, thì chú bảo con mèo cứ kêu với con chuột rằng: "Nghèo, nghèo, nghèo", thì chuột nó cũng sợ mà nó phải bỏ đi. Vua Bếp lạy tạ, rồi lại đem chuột và cả mèo xuống hạ giới. Rồi cứ theo như lời dạy mà làm. Thành thử bây giờ khi nào mèo rình bắt được chuột, rồi mèo cứ "gầm gừ, gầm gừ" và khi nào
- không bắt được chuột thì mèo ngồi kêu: "nghèo, nghèo, nghèo, nghèo" Nhưng lúc ấy, mèo ngồi nghĩ lại, mới lấy làm giận vua Bếp, vì tại vua Bếp mèo mới phải xuống dương gian. Nhưng không làm gì nổi vua Bếp, mèo chỉ còn cách thỉnh thoảng vào giữa đống tro bếp để phóng uế. Sự Tích Trái Dưa Hấu 1.Vào đời Hùng-vương, ở một vùng quê cách xa kinh đô Phong-Châu, có một cậu bé mồ côi, thường theo người lớn đi săn bắn và đánh cá Năm tám tuổi, cậu bé được lên kinh đô và gặp vua Hùng. Thấy cậu bé thông minh, nhà vua nhận làm con nuôi và đặt tên là Mai An-Tiêm. 2. Lớn lên, Mai An-Tiêm rất khỏe mạnh và chăm chỉ làm việc. Vua Hùng cưới vợ cho An-Tiêm và cho cả hai vợ chồng đi phá rừng, làm rẫy trồng trọt. Chỉ ít lâu sau, An-Tiêm đã dựng được nhà cửa và gặt được nhiều thóc lúa chứa đầy kho. 3.Thấy thế, bọn người ganh tị tâu với vua Hùng : "An-Tiêm coi thường ơn Vua . Hắn cho rằng của-cải làm ra đều là nhờ ơn Trời và tài sức của hai vợ chồng hắn với các con". Vua Hùng nghe tâu giận lắm, không cần tìm hiểu hư, thực ra sao
- 4. Nhà Vua truyền lệnh đày gia đình An-Tiêm ra một đảo hoang vắng ở biển Đông. Ngoài lương khô đủ ăn trong vài tháng, không được mang theo gì hết xem còn nhờ Trời vào đâu. Thế là cả gia đình An-Tiêm lênh đênh ở giữa biển khơi. 5.Cuối cùng, thuyền tới một đảo hoang, đầy cát trắng. Ngoài ít lương khô, không có một con dao hoặc một hạt giống gì nữa. Vợ An-Tiêm khóc. Chàng dỗ vợ: "Chúng ta là người có khối óc và hai bàn tay thì gian nan, vất vả mấy cũng vượt qua được! " 6. Hôm sau, An-Tiêm kiếm được cành cây nhọn, liền đào đất xuống thật sâu và thấy nước ngọt để uống. Rồi chàng cùng các con bẻ cành cây, khuân đá xếp lại, làm nơi trú mưa nắng. Vợ chàng xuống ven biển mò được cua, ốc để ăn thêm. 7. Nhờ kiếm được những viên đá lửa lớn, An-Tiêm đánh hai viên đá vào nhau là có lửa để nấu cua, luộc ốc. Một hôm, An-Tiêm thấy có con chim trắng ở đâu bay tới, làm rơi hạt đen đen xuống bãi cát trắng. An-Tiêm liền đem hạt này trồng thử.
- 8. Mấy tháng sau, những hạt ấy mọc thành những cây nhỏ bò lan trên mặt cát. Cây có nhiều trái màu canh thẫm to bằng đầu người lớn. An-Tiêm hái một trái đem về cho cả nhà ăn thấy ruột đỏ mà ngọt, lại có lắm nước. Thế là An-Tiêm liền trồng thêm nhiều nữa. 9. Đến khi dưa có nhiều trái rồi, An-Tiêm dùng que nhọn vạch chữ vào, thả xuống biển cho trôi đi khắp nơi. Thuyền buôn qua lại, vớt được trái này, ăn thấy ngon, liền tìm tới đảo, đổi hàng hoá, vải, gạo lấy những trái đó đem đi các nơi bán. Đó là trái dưa hấu, "tức quả dưa đỏ". 10.Tiếng đồn về quả dưa đỏ đến tai vua Hùng. Vua biết tài của An-Tiêm nên cho cả gia đìng An-Tiêm trở lại đất liền. Lần này vua lại phong thưởng cho An-Tiêm và khuyên chàng dạy cho mọi người cách trồng dưa. Kể từ đó, nước Văn-Lang có thêm loại dưa hấu đỏ vừa để ăn, vừa để bán. Truyện Cổ Tích » Sự Tích Con Cóc Trong nhà nọ có hai chị em, mỗi người một tính nết. Người chị xinh đẹp, tham lam và lười nhác. Người em bị què tay, nhưng rất siêng năng làm lụng. Người chị cậy khoẻ, cậy xinh, sáng trưa chiều tốt chỉ luẩn quẩn nào gương nào lược. Chơi bời vô độ nên chẳng bao lâu người chị đã gầy khô hơn que củi mặt mũi héo tóp như một xác chết. Người em mang tật: Tay phải co quắp từ thửa lọt lòng, mọi việc như cầm dao, cầm cầy, vốc cơm ăn
- cũng nhờ ở bàn tay bên trái. Quanh năm chỉ có một bộ váy áo chăn rách như tổ đỉa. Một hôm nọ, trời làm lũ lụt lớn, nước ngập hết làng, cây cỏ lúa, ngô hết chỗ cắm chân, người em bèn ngồi ôm lấy chóp núi đá, kêu trời gọi đất. Mệt quá, người em ngủ thiếp đi ba ngày bẩy đêm liền, thấy em ngủ lặng, người chị ngỡ là em đã chết, bèn cưỡi bè chuối chèo đi, bỏ mặc em trên chóp núi. Người em mở mắt choàng dậy thì nước vẫn chưa rút. Ðợi khi mặt trời đến người em liền kêu to: - Ơi, ông trời! Ông trời dừng lại hỏi: - Cháu muốn gì? Người em nói: - Ông cứu lấy chị cháu, chị cháu bị nước lũ nhận chìm mất rồi. Ông cứu được, cháu muốn chị ấy lấy được ông Mặt Trời làm chồng. Ông mặt trời cười bảo: - Chị cháu đến nhà tiên ông rồi. Cháu hãy reo hạt này ở chóp đá của cháu thì cháu muốn cái gì cũng được cái ấy. Nói xong, ông Mặt Trời lại lặn đi. Cũng lúc ấy người chị chèo bè chuối đến gõ cửa nhà Tiên ông, bè chuối giạt lên sân thì người chị hò hét: - Cho tôi gặp chàng tiên đẹp nhất! Tiên ông nhìn ra thấy có người con gái lạ, lại đòi gặp tiên, liền mời vào nhà. Người chị nói luôn: - Tôi không lấy ông đâu, ông già và xấu quá, cho tôi lấy chàng tiên đẹp nhất. Tiên ông gật đầu bảo: - ừ! Nói rồi, Tiên ông khoát tay một cái, lập tức từ trong nhà có một chàng trai đi ra, nắm lấy tay người chị. Chàng trai là dòng họ của Cóc tía, cho nên tiên ông đặt tên chàng là chàng Cóc tía. Từ đấy, vợ chồng người chị sống cuộc sống sung sướng trong cảnh tiên. Người em gieo cái hạt của ông mặt trời cho vào kẽ đá, nàng lấy bàn tay trái của mình vơ rêu lá, giật cả vạt áo mình phủ cho hạt được nguyên lành. Chẳng bao lâu từ kẽ đá vươn ra một cây bầu, quả to như cái sọt. Nàng lăn bầu xếp ra rìa núi. Núi bầu cứ nối nhau, nối nhau mọc ra, vùng nước lũ cứ thu hẹp dần nhường chỗ cho bầu ở.Một ngày kia, người tiên thấy có nhiều núi nhỏ lên chật cả gầm trời. Vợ chồng Cóc Tía nhìn xuống thì thấy người con gái cầm dao bằng tay trái cứ quần quật bổ bầu ra chia cho mọi người. Người chị nhận ra kẻ ngồi với núi bầu là đứa em của mình, lòng ghen ghét lại nổi lên. Mụ liền kéo tay chồng bảo: - Cái con què đó còn sống, nó có nhiều bầu kia kìa. Chàng Cóc Tía chưa kịp hỏi thêm đầu đuôi ra sao thì mụ đã nắm tay
- chồng bảo nhảy ào xuống các chỏm núi bầu. Nhẩy khỏi nhà trời, vợ chồng hắn hiện nguyên hình một đôi Cóc Tía. Ðôi vợ chồng Cóc Tía ngồi chồm chỗm trên một quả bầu. Người em hỏi: - Con muốn gì? Cóc nói: - Ta muốn nhận mày là em gái. Người em lắc đầu: - Chị ta lên trời lâu rồi. Cóc bảo: - Tao là chị đây, còn đây là anh rể của mày. Người em ngồi nghe Cóc Tía vợ kể lại chuyện cũ gặp lũ to, chèo bè chuối lên trời ra sao Nghe mãi rồi tin lời Cóc là phải. Người em liền nhận anh chị và cho ở chung trên ngọn núi cùng chăm nom dây bầu với mình. Khi ấy, ông Mặt trời đi qua, dừng lại nói với người em: - Anh chị đã về với cháu đấy. Người em nói: - Vâng. Ông mặt trời bảo: - Bây giờ ta cho cháu một người chồng, cháu hãy bổ quả bầu xấu nhất ra thì gặp chồng. Người em liền bổ quả bầu vặn vẹo xấu xí, vỏ bầu tách ra thì có một chàng trai khôi ngô, tuấn tú hiện ra nhận là chồng của người em, Hai vợ chồng người em lại lấy quả bầu xếp bậc xuống thấp dần. Họ xếp quả bầu đến đâu thì mực nước lui xuống đến đó. Ðồng ruộng làng mạc lại hiện về như xưa. Bà con làng xóm trở về làm ăn sing sống yên ấm. Cũng từ đấy vợ chồng Cóc Tía được người em đưa xuống cùng ăn ở, làm lụng với dân bản. Người chị không còn ghen ghét với em gái như xưa nữa. Truyện Tấm Cám Ngày xưa có một cô gái xinh đẹp, hiền hậu tên là Tấm. Vì mẹ mất sớm nên cha cô tục huyền với một người đàn bà khác. Rồi sau đó cha cô cũng qua đời
- nốt. Tấm đành phải ở với bà dì ghẻ. Bà này cũng có một cô con gái trạc bằng tuổi nàng tên là Cám. Ngày ngày Tấm phải đảm đương hết mọi công việc nặng nhọc trong nhà, kể cả việc lùa trâu ra đồng ăn cỏ. Trong lúc đó thì Cám được mẹ nuông chiều không phải làm gì, suốt ngày chỉ biết ăn uống rồi đi rong chơi. Một hôm bà dì ghẻ gọi cả Tấm và Cám vào rồi bảo: - Hôm nay hai đứa ra ao bắt cá bắt tép, đứa nào được nhiều thì sẽ được thưởng, còn đứa nào lười biếng sẽ bị ăn đòn đấy, nghe chưa? Tấm nghe lời dì, ra ao mải mê bắt cá, không dám nghỉ ngơi, còn Cám thì vốn lười biếng, lại ỷ vào tình thương của mẹ, nên đuổi bướm hái hoa chán rồi lăn ra ngủ. Đến chiều Tấm vui vẻ bảo Cám: - Chị bắt cá đầy giỏ rồi, mình về thôi Cám! Cám nhìn vào cái giỏ trống không của mình, lòng thầm nghĩ: - Chẳng có con nào, thế nào mẹ cũng mắng. Ta phải tìm cách cướp cá tép của Tấm mới được. Nghĩ vậy, Cám liền nói với Tấm: - Chị Tấm ơi! Đầu chị đầy bùn trông xấu lắm! Chị xuống gội đầu cho sạch rồi về cũng không muộn! Tấm nghe Cám nói thì tin lời ngay, bỏ giỏ xuống, lội ra chỗ nước trong gội đầu, không một mảy may nghi ngờ. Cám liền trút hết cá của Tấm vào giỏ của mình và vội vàng bỏ về trước. Khi trở lên bờ, Tấm thấy giỏ cá của mình lăn lóc bên cạnh bờ ao thì khóc sướt mướt vì nghĩ đến trận đòn hôm nay. Đúng lúc đó thì ông Bụt hiện ra nói với Tấm: - Con đừng khóc nữa! Hãy xem trong giỏ còn con cá nào không? Ông sẽ tìm cách giúp cho. Tấm ngưng khóc tìm trong giỏ và đáp: - Thưa ông, còn sót lại một con cá bống nhỏ ạ!
- Ông tiên cười vuốt râu nói: - Vậy cũng tốt! Con hãy đem con cá bống đó về thả xuống giếng đi. Ta sẽ dạy cho con câu này để gọi nó lên ăn cơm. Sau này nó sẽ giúp con. Tấm nghe lời ông Bụt, ngày ngày để dành cơm đem đến rồi gọi: - Bống bống bang bang, lên ăn cơm vàng cơm bạc nhà ta. Chớ ăn cơm hẩm cháo hoa nhà người. Bà mẹ ghẻ và cô Cám nghi ngờ nên bà bảo Cám: - Con rình xem nó làm gì mà ngày nào cũng thậm thụt ngoài giếng hoài vậy? Cám nghe lời mẹ, theo dõi Tấm và biết được sự việc liền nói với mẹ. Qua hôm sau, bà mẹ sai Tấm lùa trâu đi vào núi ăn cỏ. Ở nhà, mẹ con Cám bắt chước Tấm gọi cá lên cho ăn rồi vớt lấy cá đem vào bếp làm thịt. Chiều Tấm về gọi cá lên cho ăn, gọi mãi không thấy cá đâu, mà chỉ thấy một cục máu nổi lên, nàng sợ hãi bật khóc: - Trời ơi! Cá bống mất rồi, hu hu Bụt lại hiện ra hỏi vì sao, Tấm đáp: - Dạ thưa ông, người ta bắt mất bống của con rồi! - Thôi, hãy về nhặt xương của nó bỏ vào lọ, đem chôn ở chân giường, sau này con sẽ cần đến nó! Tấm nghe lời vào nhà tìm, nhưng nàng chẳng thấy mảnh xương nào cả. Chợt một con gà trống bay vào nói: - Cục ta cục tác, cho ta nắm thóc, ta móc xương cho! Tấm liền cho nó một nắm thóc, tức thì nó bươi trong đống tro văng ra xương cá. Nàng đem chôn đúng chỗ ông Bụt dạy. Một thời gian sau, mọi người nô nức rủ nhau đi xem hội. Bà mẹ ngại Tấm đòi đi theo liền trộn chung đậu và gạo với nhau rồi bảo Tấm: - Muốn đi dự hội thì hãy nhặt hết đậu trộn trong gạo chia ra làm hai phần rồi mới được đi nghe chưa? Tấm cầm nia gạo trộn đậu mà rơi nước mắt nhìn theo hai mẹ con Cám. Nàng chỉ biết than thở:
- - Ôi! Sao ta lại khổ thế này? Hu hu Nghe vậy, Bụt lại hiện ra: - Ta biết con thích đi dự hội nên đến giúp đây! Con hãy đặt nia gạo ra sân ta sẽ cho bầy chim xuống nhặt cho. Tấm liền làm theo lời ông Bụt và gọi: - Chim sẻ ơi! mau xuống giúp ta! Một đàn chim từ trời cao kéo xuống nhanh nhẹn nhặt đậu và gạo giúp nàng. Trong chốc lát gạo và đậu đã được tách riêng ra hai bên gọn gàng. Ông Bụt lại nói với Tấm: - Bây giờ con hãy đào lọ chôn xương cá lên! Con sẽ tìm được những thứ mà con mong ước! Tấm vội làm theo lời của Bụt, đào chiếc lọ lên và nàng thấy có nhiều thứ quý giá ở bên trong. Nàng vô cùng ngạc nhiên và vui mừng bảo: - Ồ! Áo đẹp quá! lại có cả đôi hài nhung dễ thương này nữa! Tấm vừa cầm áo ra khỏi lọ, thì một con ngựa bé tí cũng chui ra. Nàng thốt lên: - Ôi! Lại có cả ngựa! Nhưng sao nó bé xíu thế nhỉ? Làm sao cháu đi được? Tấm vừa dứt lời thì con ngựa đã biến thành một con ngựa trắng, to lớn khỏe mạnh với các bộ yên cương rất đẹp. Tấm liền tắm rửa, thay áo quần và đi hài vào. Tất cả mọi thứ đều vừa vặn y như là của nàng. Sau đó Tấm lên ngựa, con thần mã lao đi vun vút, chẳng mấy chốc đã đến kinh đô. Nhưng khi phóng qua một vũng nước, Tấm đánh rơi một chiếc giày xuống nước mà không kịp nhặt. Khi ngựa dừng lại ở đám hội, Tấm lấy khăn gói chiếc giày còn lại rồi chen vào trong đám người dự lễ.